id
int64
39
19.8M
url
stringlengths
31
264
title
stringlengths
1
182
text
stringlengths
1
316k
__index_level_0__
int64
1
7.91M
19,804,188
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804188
Phạm Quốc Khánh (vận động viên wushu)
Phạm Quốc Khánh (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1990) là một vận động viên Wushu Việt Nam. Sự nghiệp. Chiến thắng mang tầm quốc tế đầu tiên trong sự nghiệp của Phạm Quốc Khánh là tại Đại hội Thể thao châu Á 2006, anh ấy giành huy chương bạc tại nội dung biển diễn Nam quyền. Một năm sau, Khánh trở thành nhà vô địch thế giới ở nội dung biểu diễn Nam quyền tại Giải Vô địch Wushu Thế giới 2007. Anh ấy cũng giành được huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007. Hai năm sau, anh thi đấu tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2009 và đã giành được huy chương vàng ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Gần một năm sau tại Đại hội Thể thao châu Á 2010, anh ấy giành được huy chương đồng ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2011, Phạm Quốc Khánh giành được huy chương bạc khác ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Hai năm sau đó, anh ấy giành được huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam côn tại Giải Vô địch Wushu Thế giới, tiếp đó là một huy chương vàng ở cùng nội dung đó và một huy chương đồng ở nội dung biểu diễn Nam đao tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015, anh ấy cũng giành được 1 tấm huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Hai năm sau, Phạm Quốc Khánh giành được 2 tấm huy chương bạc tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2017, giành chiến thắng ở 2 nội dung biển diễn Nam quyền và Nam đao. Tại Giải Vô địch Wushu Thế giới 2017, anh ấy đã giành được huy chương đồng tại nội dung biểu diễn Nam quyền. Và anh ấy cũng đủ điều kiện để tham dự Giải Vô địch Biểu diễn Wushu Thế giới 2018 và giành huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền. Cùng năm đó, Khánh cũng giành được huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam quyền tại Đại hội Thể thao châu Á. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, Phạm Quốc Khánh giành được 2 huy chương, 1 huy chương vàng ở nội dung biểu diễn Nam quyền và 1 huy chương đồng ở nội dung biểu diễn Nam đao và Nam côn kết hợp. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, anh ấy dành được 1 huy chương vàng ở nội dung biểu diễn Nam đao và 1 huy chương bạc ở nội dung biểu diễn Nam côn và tuyên bố giải nghệ.
7,904,124
19,804,226
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804226
Dominik Stolz
Dominik Stolz (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Swift Hesperange tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Luxembourg.
7,904,128
19,804,347
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804347
Grégory Proment
Grégory Proment (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1978) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp đã từng thi đấu ở vị trí tiền vệ. Trong suốt cả sự nghiệp, anh ta đã từng thi đấu cho những câu lạc bộ như: Metz, Caen, và Antalyaspor. Anh ta hiện đang là trợ lý huấn luyện viên của đội dự bị Caen. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại Cormeilles-en-Parisis, Val-d'Oise, Proment dành ra phần lớn sự nghiệp tại câu lạc bộ FC Metz với 261 lần ra sân trong 6 mùa giải, và Stade Malherbe Caen. Sau khi giành quyền thăng hạng Ligue 2 với Caen, Proment ký hợp đồng 3 năm với Antalyaspor vào tháng 6 năm 2010. Tuy nhiên, anh ta rời câu lạc bộ vào tháng 1 năm 2011 sau khi chỉ có 8 lần ra sân tại giải quốc nội. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Proment đã từng giành chức vô địch tại Giải vô địch bóng đá U‑19 châu Âu 1997 với U-18 Pháp.
7,904,149
19,804,565
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804565
Bá tước xứ Sutherland
Bá tước xứ Sutherland (tiếng Anh: "Earl of Sutherland") là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Scotland. Nó được tạo ra vào khoảng năm 1230 cho William de Moravia và là bá tước hàng đầu thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland. Bá tước hoặc nữ bá tước của Sutherland cũng là thủ lĩnh của Thị tộc Sutherland. Lịch sử. Dòng dõi ban đầu của bá tước Sutherland có họ "de Moravia" mặc dù đôi khi họ sử dụng họ "Sutherland", lấy từ tước vị cha truyền con nối của họ. Cái tên de Moravia có nghĩa là "của Moray" hoặc "của Murray". De Moravias từng là bá tước của Sutherland và là thủ lĩnh của thị tộc Sutherland, được cho là đã chia sẻ tổ tiên nội ban đầu của họ với các thủ lĩnh của thị tộc Murray thông qua tổ tiên chung của họ là Freskin de Moravia. Nhiều nhánh khác nhau của Gia tộc Murray tuyên bố có nguồn gốc từ Freskin, bao gồm cả những người từng là bá tước và sau này là Công tước xứ Atholl. Nghiên cứu hiện tại đang được tiến hành thông qua các nghiên cứu Y-DNA dòng nam phối hợp với cả hai nhánh của các thị tộc này để xác định xem có nhánh hiện đại nào có chung tổ tiên thời trung cổ hay không. Từ Robert, Bá tước thứ 6 (mất năm 1444) trở đi, họ Sutherland đã được sử dụng. Elizabeth Sutherland, Nữ bá tước thứ 10 xứ Sutherland (1470–1535) kết hôn với Adam Gordon, con trai nhỏ của George Gordon, Bá tước thứ 2 xứ Huntly, tộc trưởng Thị tộc Gordon. Con trai đầu lòng của họ là Alexander Gordon, Chủ nhân của Sutherland, có hậu duệ là một số bá tước tiếp theo của Sutherland, những người đều sử dụng họ Gordon. Tước hiệu một lần nữa được nắm giữ bởi một chuỗi dài các hậu duệ nam, cho đến khi William Gordon, Bá tước thứ 18 xứ Sutherland qua đời, không có con trai, khi tước hiệu này được truyền cho con gái của ông là Elizabeth, Nữ bá tước thứ 19 xứ Sutherland (1765–1839).
7,904,183
19,804,667
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804667
Bộ ba B
"Bộ ba B" (tên tiếng Anh là "Three Bs") là cụm từ để chỉ sự viết tắt chữ cái đầu tên họ của 3 nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach, Ludwig van Beethoven và Johanes Brahms (trước đó là Hector Berlioz). Thuật ngữ này bắt nguồn từ cách diễn đạt do Peter Cornelius đề ra vào năm 1854, trong đó ông cho rằng Hector Berlioz mới là người thứ ba đạt được những đỉnh cao về âm nhạc mà Johann Sebastian Bach và Ludwig van Beethoven đã có. Cuối thế kỷ 19, nhạc trưởng Hans von Bülow đã thay thế Berlioz bằng Johannes Brahms. Cụm từ này thường được sử dụng trong các cuộc thảo luận về âm nhạc cổ điển để chỉ ưu thế được cho là của Bach, Beethoven và Brahms trong lĩnh vực âm nhạc. Nguồn gốc. Trong một bài báo trên "", Cornelius đã giới thiệu Berlioz là người thứ ba trong bộ ba B. Sau đó ông kết thúc bài viết của mình với lời khẩu hiệu hô vang, "Bach, Beethoven, Berlioz!" Nhiều thập kỷ sau, Bülow nghĩ ra một cách chơi chữ khác cho một người bạn: "Mein musikalisches Glaubensbekenntniss steht in Es dur, mit drei B-en in der Vorzeichnung: Bach, Beethoven, und Brahms!" (tạm dịch: "Tín ngưỡng âm nhạc của tôi nằm trong điệu tính của Mi giáng trưởng và chứa ba chữ B [nốt giáng] trong hoá biểu của nó: Bach, Beethoven và Brahms!"). Bülow đã bị thu hút bởi ý tưởng về thể loại Ba ngôi của âm nhạc cổ điển trong một vài năm, như ông từng viết vào những năm 1880: "Tôi tin vào Bach, Cha, Beethoven, Con và Brahms, Thánh Linh của âm nhạc". Ông còn so sánh Beethoven và Brahms bằng cách coi bản giao hưởng đầu tiên của Brahms sau này là bản giao hưởng thứ mười của Beethoven. Năm 1838, Niccolò Paganini đã xác định Berlioz là người kế vị xứng đáng của Beethoven. Quả thực, hai năm trước bài báo của Cornelius, Hans von Bülow đã tự gọi Berlioz là "người kế vị nghiễm nhiên và năng nổ nhất của Beethoven". David Matthews đề nghị rằng nếu có một "B thứ tư" được thêm vào sự kế thừa này, thì đó có thể là Benjamin Britten.
7,904,199
19,804,743
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804743
Đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Kyrgyzstan
Đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Kyrgyzstan là một đội tuyển bóng đá trẻ được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá Kyrgyzstan. Đội tuyển này đại diện cho Kyrgyzstan tham dự Cúp các quốc gia độc lập năm 2015, Giải vô địch bóng đá trẻ châu Á 2006 và Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023. Đội hình hiện tại. Dưới đây là danh sách 23 cầu thủ được triệu tập cho Cúp bóng đá U-20 châu Á 2023.
7,904,212
19,804,846
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19804846
Die Dresdner Philharmoniker
Die Dresdner Philharmoniker là một bộ phim tài liệu của Đông Đức. Bộ phim theo chân Dresden Philharmonic và nhạc trưởng Heinz Bongartz trên một chuyến lưu diễn tới Séc, Pháp, Hungary và România. Bộ phim do Joachim Kunert đạo diễn và được phát hành 1955.
7,904,225
19,805,122
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805122
Michele Cevoli
Michele Cevoli (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người San Marino hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ A.C. Juvenes/Dogana. Sự nghiệp thi đấu. Quốc tế. Anh ta ra mắt cho U-21 San Marino vào ngày 1 tháng 9 năm 2016 trong trận thua 0-6 thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá U‑21 châu Âu 2017 gặp Tây Ban Nha. Trong trận thua 9–0 trước Nga thuộc khuôn khổ Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 vào ngày 8 tháng 6 năm, Cevoli đã có 1 pha đốt lưới nhà trong hiệp một. Câu lạc bộ. Cevoli quay trở lại câu lạc bộ Cattolica trước mùa giải 2019–20, nhưng chuyển tới S.S. Pennarossa vào tháng 1 năm 2020.
7,904,243
19,805,144
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805144
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Quần đảo Solomon
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Solomon, có biệt danh "Kurukuru", đại diện cho Quần đảo Solomon trong môn bóng đá trong nhà và được kiểm soát bởi Liên đoàn bóng đá Quần đảo Solomon. Đây là một trong những đội mạnh của châu Đại Dương, tuy nhiên lại không đạt được nhiều thành tích khi tham dự các giải thế giới. Huấn luyện viên trưởng của đội vào năm 2008 là Victor Wai’ia. Đến năm 2009, đội đã bổ nhiệm huấn luyện viên trưởng mới là Dickson Kadau. Quốc gia này không có bất kỳ một nhà thi đấu nào, mặc dù vào tháng 7 năm 2009, chủ tịch nước Derek Sikua cam kết rằng chính phủ sẽ xây dựng một nhà thi đấu mới. Ngày 6 tháng 10 năm 2008, Đội tuyển Quần đảo Solomon phá kỷ lục trở thành đội có trận thua đậm nhất lịch sử FIFA Futsal World Cup vào năm 2008, khi họ đã bị Nga đánh bại với tỷ số là 31–2. Đây là lần đầu tiên quốc gia này tham dự đấu trường thế giới; họ đứng cuối ở bảng A, với 4 trận thua, ghi được 6 bàn và để đối thủ chọc thủng lưới tới 69 bàn. Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2012 tại Thái Lan, đội tuyển xứ Kurukuru một lần nữa đứng ở vị trí cuối cùng ở vòng bảng, nhận hai trận thua liên tiếp trước Nga và Colombia, nhưng đã giành trận thắng đầu tiên trong lịch sử của họ khi đánh bại Guatemala 4–3. Ở đấu trường châu lục, đội tuyển xứ Kurukuru vô địch năm 2008, và bảo vệ thành công chức vô địch năm 2009, đánh bại Fiji 8–1 trong trận chung kết, và vô địch 2 năm liên tiếp, các năm 2010 và 2011. Sau khi thất bại trong trận chung kết vào năm 2013 và không tham dự năm 2014, họ đã phá kỷ lục 5 lần vô địch Giải bóng đá vô địch trong nhà châu Đại Dương vào năm 2016. Do đó, họ là đương kim vô địch châu lục. Đội tuyển quốc gia nước này hiện tại đang nắm giữ kỷ lục ghi bàn nhanh nhất thế giới trong một trận đấu futsal. Người ghi bàn chính là đội trưởng Elliot Ragomo, ghi bàn trước New Caledonia với thời gian là 3 giây vào tháng 7 năm 2009. Lịch thi đấu và kết quả. Các trận đấu sau đây được liệt kê tính đến hết năm 2021 Cầu thủ. Đội hình hiện tại. Những cầu thủ này đều được triệu tập cho Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2021.
7,904,246
19,805,152
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805152
Thiha Htet Aung
Thiha Htet Aung (; sinh ngày 13 tháng 3 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá Myanmar hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Yangon United và Đội tuyển bóng đá quốc gia Myanmar. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Năm 2015, anh ta đóng vai trò quan trọng trong đội hình đội tuyển U-20 Myanmar dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2015 ở New Zealand. Danh hiệu. Đội tuyển quốc gia Câu lạc bộ
7,904,248
19,805,186
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805186
Antónia của Bồ Đào Nha
Infanta Antónia của Bồ Đào Nha hay Antónia của Bragança (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ɐ̃ˈtɔniɐ]; "Antónia Maria Fernanda Micaela Gabriela Rafaela Francisca de Assis Ana Gonzaga Silvéria Júlia Augusta de Saxe-Coburgo e Bragança"; 17 tháng 2 năm 1845 – 27 tháng 12 năm 1913) là một Vương nữ Bồ Đào Nha đến từ Vương tộc Bragança, con gái của Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha và chồng thứ 2 của bà là Fernando II của Bồ Đào Nha. Thông qua cha mình, Antónia cũng giữ các danh hiệu Công nữ xứ Sachsen-Coburg và Gotha và Nữ Công tước xứ Sachsen. Antónia là vợ của Thân vương Leopold đến từ Gia tộc Hohenzollern-Sigmaringen ở Swabia, một chi nhánh của Vương tộc Hohenzollern. Tuy là người đứng đầu một triều đại, nhưng gia tộc của ông đã mất lãnh thổ và không còn quyền lực cai trị, tuy nhiên, em trai của ông là Thân vương Karl đã được bầu lên ngai vàng Thân vương quốc Romania và sau trở thành vua đầu tiên của Vương quốc Romania. Vì không có con thừa tự nên người em trai đã để cho ông trở thành người đứng đầu trong danh sách thừa kế ngai vàng Romania. Nhưng đến năm 1880, Leopold đã từ bỏ quyền kế vị để ủng hộ con trai của mình là Thân vương Ferdinand và ông này kế vị ngai vàng Romania vào năm 1914 với vương hiệu Ferdinand I.
7,904,250
19,805,198
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805198
English Football League play-offs 2023
English Football League play-offs mùa giải 2022-23 (đựoc gọi là Sky Bet Play-Offs vì lý do tài trợ) sẽ được tổ chức vào tháng 5 năm 2023 với tất cả các trận chung kết được tổ chức tại Sân vận động Wembley ở Wembley. Các trận play-off bắt đầu ở mỗi giải đấu với hai trận bán kết diễn ra theo hai lượt. Các đội xếp thứ 3, 4, 5 và 6 ở Championship và League One và các đội xếp thứ 4, 5, 6 và 7 ở League Two tham gia lượt trận này. Những đội chiến thắng trong trận bán kết sẽ tiến vào trận chung kết, với đội chiến thắng sẽ được thăng hạng cho mùa giải tiếp theo. Bối cảnh. Các trận play-offs của English Football League đã được tổ chức hàng năm kể từ năm 1987. Chúng diễn ra cho mỗi hạng đấu sau khi kết thúc mùa giải thông thường và được tranh tài bởi bốn câu lạc bộ xếp dưới vị trí thăng hạng thẳng lên hạng đấu trên. Lịch thi đấu được xác định theo vị trí cuối cùng của giải đấu – ở Championship và League One, là hạng 3 đấu 6 và 4 đấu 5, trong khi ở League Two là hạng 4 đấu 7 và 5 đấu 6. Championship. Bán kết Championship. Bảng xếp hạng đã được xác định sau lựot trận cuối cùng vào ngày 8 tháng 5 năm 2023. Bước vào ngày thi đấu cuối cùng, Luton Town và Middlesbrough đã xác định được vị trí của mình trong trận play-off, lần lượt đứng thứ 3 và 4. Coventry City kết thúc lượt trận cuối ở vị trí thứ 5 với trận hòa trước Middlesbrough là đủ để đảm bảo cả hai đội sẽ đối đầu nhau ở bán kết. Millwall trước vòng đấu cuối đang ở vị trí thứ 6, nhưng Sunderland, West Bromwich Albion và Blackburn Rovers đều tiếp tục bám đuổi vị trí cuối cùng của lượt trận play-offs khi trận đấu bắt đầu. West Bromwich Albion bỏ lỡ vị trí thứ 6 sau trận thua Swansea City. Millwall rơi xuống vị trí thứ 8 khi họ để thua câu lạc bộ đang tràn trề hy vọng Blackburn Rovers, cũng đứng thứ 7 về hiệu số bàn thắng bại. Chiến thắng của Sunderland trước Preston North End đồng nghĩa với việc họ chính thức giành được vị trí thứ 6 và đối đầu với Luton Town ở bán kết, có thể giúp họ có cơ hội thăng hạng qua vòng play-off mùa thứ hai liên tiếp sau khi giành quyền tham dự play-off 2022 League One mùa trước. Lựot đi Lượt về "Luton Town thắng với tổng tỉ số 3-2" " Coventry City thắng với tổng tỉ số 1-0" Chung kết Championship. Đội thắng trong trận đấu này sẽ được thăng hạng lên Premier League và sẽ chơi ở mùa giải Premier League 2023–24 cùng với các đội tự động thăng hạng là Burnley và Sheffield United. League One. Bán kết League One. Bảng xếp hạng được xác nhận sau ngày thi đấu cuối cùng vào ngày 7 tháng 5 năm 2023. Bước vào ngày thi đấu cuối cùng, Sheffield Wednesday và Barnsley đã chắc suất tham dự vòng play-off, lần lượt đứng thứ 3 và 4. Bolton Wanderers cũng đã đảm bảo suất tham dự vòng play-off và giành chiến thắng trước Bristol Rovers để đứng thứ 5, đảm bảo họ sẽ đối đầu với Barnsley ở bán kết. Derby County đứng thứ 6 với chỉ một chiến thắng mới có thể đảm bảo một suất đá play-off với bất kỳ kết quả nào khác đều mở ra cánh cửa vào vị trí thứ 6 cho Peterborough United, đội cần phải giành chiến thắng. Peterborough United đánh bại Barnsley, trong khi Derby County thua Sheffield Wednesday. Điều này có nghĩa là Peterborough United đứng thứ 6 và sẽ đối đầu với Sheffield Wednesday ở bán kết, trong khi Derby County đứng thứ 7. Lượt đi Lượt về "Tổng tỉ số là 5-5. Sheffield Wednesday thắng trên loạt sút luân lưu 5-3" " Barnsley thắng với tổng tỉ số 2-1" Chung kết League One. Đội chiến thắng trong trận đấu này sẽ cùng với Plymouth Argyle và Ipswich Town thăng hạng lên EFL Championship và sẽ thi đấu trong mùa giải EFL Championship 2023–24. League Two. Bán kết League Two. Bảng xếp hạng cuối cùng được xác định sau lượt trận cuối cùng vào ngày 8 tháng 5 năm 2023. Bước vào ngày thi đấu cuối cùng, Stockport County đã chắc suất đá play-off và vẫn có thể đứng thứ 3 nếu họ thắng và Northampton Town không thắng ở trận cuối của mùa giải, do Stockport County vượt trội hơn về hiệu số bàn thắng bại. Tuy nhiên, Stockport đã hòa với Hartlepool United đã xuống hạng vào ngày cuối cùng trong khi Northampton Town giành chiến thắng trước Tranmere Rovers, đưa Stockport County xuống vị trí thứ 4. Carlisle United, Salford City và Bradford City đều có 75 điểm trong ngày cuối cùng, với Mansfield Town vẫn có cơ hội trôn chân vào vị trí đá play-off vào ngày cuối cùng của mùa giải, nếu họ giành chiến thắng và một trong 3 đội còn lại thua thì Mansfield sẽ đạt được mục tiêu. Carlisle United và Bradford City đã lần lượt giành được các trận hòa với Sutton United và nhà vô địch Leyton Orient để đảm bảo vị trí của họ. Carlisle United đứng thứ 5 nhờ hiệu số bàn thắng bại vượt trội hơn so với Bradford City ở vị trí thứ 6. Tuy nhiên, Salford City đã thua 1–0 trước Gillingham nhưng chỉ giành được vị trí thứ 7 do Mansfield Town chỉ thắng được 2–0 trước Colchester United và cần ghi thêm 1 bàn nữa để vượt qua Salford City. Kết quả này đảm bảo rằng Stockport County lần lượt đấu với Salford City và Carlisle United đấu với Bradford City qua 2 lượt trận bán kết. Lượt đi Lượt về "Tổng tỉ số là 2-2. Stockport County chiến thắng trên loạt sút luân lưu 3-1." "Carlisle United chiến thắng với tổng tỉ số 3-2." Chung kết League Two. Đội chiến thắng trong trận đấu này sẽ được thăng hạng lên EFL League One và sẽ chơi ở mùa giải 2023–24 EFL League One cùng với Leyton Orient, Stevenage và Northampton Town đã thăng hạng.
7,904,251
19,805,211
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805211
Danh sách cầu thủ bóng đá nam có 100 lần khoác áo đội tuyển quốc gia trở lên
Trong bóng đá, một lần ra sân theo truyền thống được trao trong bóng đá quốc tế cho một cầu thủ ra sân chính thức cho đội tuyển quốc gia của họ. Tổng cộng có 579 cầu thủ bóng đá nam đã thi đấu chính thức từ 100 trận đấu quốc tế trở lên. Kỷ lục hiện đang được nắm giữ bởi Cristiano Ronaldo của Bồ Đào Nha, người đã vượt qua Bader Al-Mutawa của Kuwait với tổng số 196 lần ra sân tháng 3 năm 2023. Trước Al-Mutawa, kỷ lục được nắm giữ bởi Soh Chin Ann của Malaysia, với 195 trong số 222 lần ra sân của ông được phê chuẩn là chính thức. Sự khác biệt là do FIFA, cơ quan quản lý bóng đá quốc tế, không công nhận các trận đấu như Thế vận hội và những trận đấu không được phân loại là trận đấu 'A'. Cầu thủ bóng đá nam đầu tiên chơi 100 trận đấu quốc tế là Billy Wright của Anh vào năm 1959, kết thúc với 105 lần khoác áo.
7,904,254
19,805,214
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805214
Lịch sử của lịch
Lịch sử của lịch được xem xét từ những phương pháp có nguồn gốc cổ xưa, khi mà con người tạo ra và sử dụng các phương pháp khác nhau để theo dõi các ngày và các đơn vị thời gian lớn hơn. Các lịch thường phục vụ cả mục đích văn hóa và thực tế và thường được liên kết với thiên văn học và nông nghiệp. Các nhà khảo cổ học đã tái tạo lại các phương pháp đo thời gian từ thời kỳ tiền sử ít nhất cũng cổ như thời kỳ Đại Hồi cổ. Các đơn vị tự nhiên được sử dụng để đo thời gian bởi hầu hết các xã hội lịch sử là ngày, năm mặt trời và quý âm. Các lịch được sử dụng rõ ràng là các hệ thống được sử dụng để đo thời gian. Các lịch đầu tiên được ghi chép và định hình theo lịch sử được xác nhận từ thời kỳ Thời kỳ đồ đồng và phụ thuộc vào việc phát triển văn chương đồ đồng ở Miền Đông gần cổ đại. Ở Victoria, Australia, một sắp xếp đá Wurdi Youang có thể có từ hơn 11.000 năm trước đây. Trong năm 2013, các nhà khảo cổ đã khai quật ra bằng chứng cổ xưa về một hệ thống lịch 10.000 năm tuổi tại Warren Field, Aberdeenshire. Lịch Sumerian là lịch sớm nhất được chứng nhận theo lịch sử, tiếp theo là lịch Ai Cập, lịch Assyrian và lịch Elamite. Lịch Vikram Samvat đã được sử dụng bởi người Hindu và Sikh. Nó là một trong nhiều lịch Hindu vùng miền được sử dụng trên bán đảo Ấn Độ, dựa trên mười hai tháng trăng từ ngày này qua ngày khác và 365 ngày mặt trời. Năm âm lịch bắt đầu vào ngày trăng mới của tháng Chaitra. Ngày này, được gọi là Chaitra Sukhladi, là một ngày lễ hạn chế (tùy chọn) tại Ấn Độ. Một số bia cổ đại và trung cổ sử dụng Vikram Samvat. Mặc dù được cho là được đặt theo tên của vị vua huyền thoại Vikramaditya Samvatsara ("Samvat" trong viết tắt), "Samvat" là thuật ngữ tiếng Sanskrit cho "năm". Hoàng đế Vikramaditya của Ujjain đã bắt đầu Vikram Samvat vào năm 57 TCN và được cho là lịch này theo sau chiến thắng của ông trước Saka vào năm 56 TCN. Một số hệ thống lịch của các nền văn minh cổ Đông Á xuất hiện trong hồ sơ khảo cổ thời đại Thời kỳ sắt, dựa trên các lịch Assyrian và Babylon. Điều này bao gồm lịch của Đế quốc Ba Tư, từ đó đã dẫn đến lịch Zoroastrian cũng như lịch Hebrew. Các lịch trong thời cổ đại thường là âm dương hợp, phụ thuộc vào việc thêm vào các tháng chèn để làm phù hợp các năm mặt trời và âm lịch. Điều này chủ yếu dựa trên quan sát, nhưng có thể đã có những nỗ lực sớm để mô phỏng mô hình thuật toán của quá trình chèn, như được chứng minh trong lịch Coligny từ thế kỷ 2 (nhưng chỉ còn dư dả). Tuy nhiên, lịch La Mã chứa những di tích rất cổ của một năm mặt trời 10 tháng trước thời kỳ Etruscan. Lịch La Mã đã được cải cách bởi Giulius Caesar vào năm 45 TCN. Lịch Julian không còn phụ thuộc vào việc quan sát mặt trăng mới mà chỉ đơn giản là áp dụng một thuật toán để thêm vào một ngày nhuận mỗi bốn năm. Điều này tạo ra sự tách biệt giữa tháng trong lịch và âm lịch. Vào thế kỷ 11 ở Ba Tư, một cải cách lịch do Khayyam thông báo vào năm 1079, khi độ dài của năm được đo là 365,24219858156 ngày. Với việc độ dài của năm thay đổi trong đến thập phân thứ sáu trong suốt cuộc đời con người, điều này rất chính xác. So sánh với độ dài của năm vào cuối thế kỷ 19 là 365,242196 ngày, trong khi vào cuối thế kỷ 20 là 365,242190 ngày. Lịch Gregorian được giới thiệu như là một cải tiến của lịch Julian vào năm 1582 và ngày nay được sử dụng trên toàn thế giới như là lịch "de facto" cho mục đích thế tục. Nguồn gốc từ ngữ. Chính từ "lịch" được lấy từ "calends", thuật ngữ chỉ ngày đầu tiên của tháng trong lịch La Mã, liên quan đến động từ "calare" có nghĩa là "gọi ra", ám chỉ việc gọi hoặc thông báo rằng trăng tròn mới vừa được nhìn thấy. Tiếng Latinh "calendarium" có nghĩa là "sổ sách, sổ đăng ký", vì các sổ sách được sắp xếp và các khoản nợ được thu trên calends của mỗi tháng. Thuật ngữ Latinh đã được áp dụng trong tiếng Pháp cổ dưới dạng "calendier" và từ đó được chuyển sang tiếng Anh Trung đại vào thế kỷ 13 với dạng "calender". Cách viết "calendar" được sử dụng từ tiếng Anh Hiện đại sớm. Một giả thuyết khác liên kết "calendar" với từ "koledari" trong truyền thống Slavic trước Cơ đạo, sau này được tích hợp vào lễ Giáng sinh. "Kolo" có nghĩa là "vòng tròn, chu kỳ" và "dar" có nghĩa là "món quà". Thời tiền sử. Một số công trình tiền sử đã được đề xuất có mục đích đo thời gian (thường là theo dõi quỹ đạo của năm mặt trời). Điều này bao gồm nhiều công trình megalithic và sắp xếp tái tạo từ thời kỳ Neolithic. Tại Victoria, Úc, một sắp xếp đá Wurdi Youang có thể có từ hơn 11.000 năm trước. Ước tính này dựa trên sự không chính xác của lịch, tương thích với cách quỹ đạo của Trái Đất được cho là đã thay đổi trong khoảng thời gian đó. Các di tích này được tìm thấy gần nơi có biết đến là nơi nuôi cá lâu đời nhất trên thế giới. Một sắp xếp thời tiền sử gồm mười hai hố và một vòng cung được tìm thấy ở Warren Field, Aberdeenshire, Scotland, được định ngày khoảng năm 8.000 TCN, đã được mô tả là một lịch trăng và được gọi là "lịch trình cổ nhất thế giới" vào năm 2013. Một hiện vật gốm từ Bulgaria, được gọi là "Slatino furnace model", được định ngày khoảng năm 5.000 TCN, được tuyên bố bởi các nhà khảo cổ địa phương và truyền thông là biểu tượng lịch cổ nhất được biết đến, một tuyên bố không được chấp nhận trong quan điểm chính thống. Các phát hiện khảo cổ của văn hóa Vučedol ở Vinkovci, Croatia hiện đại bao gồm một chiếc hũ gốm có niên đại khoảng 2.600 TCN với các ký hiệu viết về các vật thể thiên văn, được giải thích là một lịch thiên văn, lịch cổ nhất ở châu Âu mà năm mới bắt đầu vào hoàng hôn của ngày đầu tiên của mùa xuân. Vùng đất gần Đông cổ. Lịch Sumer cổ, ước tính từ năm 2.100 TCN, chia một năm thành 12 tháng trăng có 29 hoặc 30 ngày. Mỗi tháng bắt đầu khi nhìn thấy trăng mới. Các tháng Sumer không có tên thống nhất trong toàn bộ vùng Sumer do sự đa dạng tôn giáo. Điều này dẫn đến việc các thư ký và học giả gọi chúng là "tháng đầu tiên", "tháng thứ năm", v.v. Để đồng bộ năm trăng 354 ngày với năm mặt trời 365,242 ngày, một tháng bổ sung được thêm vào định kỳ, tương tự như năm nhuận trong lịch Gregorian. Lịch Sumer không có tuần. Các ngày lễ và ngày nghỉ làm việc thường được tổ chức vào ngày thứ nhất, thứ bảy và thứ mười lăm của mỗi tháng. Ngoài những ngày lễ này, còn có các ngày hội khác nhau từ thành phố này sang thành phố khác. Babylon và Ba Tư. Mặc dù bằng chứng sớm nhất về truyền thống lịch Iran xuất hiện từ thế kỷ thứ hai TCN, trước khi nhà tiên tri Iran Zoroaster xuất hiện, lịch được bảo tồn hoàn toàn đầu tiên là của nhà Achaemenid. Suốt lịch sử ghi chép, người Ba Tư luôn quan tâm đến ý tưởng và tầm quan trọng của việc có một lịch. Họ là một trong những văn hóa đầu tiên sử dụng lịch mặt trời và lâu dài hơn một lịch mặt trăng và lịch mặt trăng-mặt trời. Mặt trời luôn là biểu tượng trong văn hóa Iran và liên quan mật thiết đến truyền thuyết dân gian về Cyrus Đại đế. Lịch Ba Tư cổ. Các bia đá cổ Ba Tư và bản vẽ cho thấy người Iran sớm sử dụng một lịch 360 ngày dựa trên quan sát mặt trời trực tiếp và được sửa đổi theo niềm tin của họ. Các ngày không có tên. Các tháng được chia thành hai hoặc ba phần tùy thuộc vào giai đoạn của mặt trăng. Mười hai tháng gồm 30 ngày được đặt tên theo các lễ hội hoặc hoạt động trong năm chăn nuôi. Một tháng thứ 13 được thêm vào cứ sau sáu năm để đồng bộ lịch với mùa. Lịch Zoroastrian. Các lịch dựa trên vũ trụ Zoroastrian xuất hiện trong thời kỳ Achaemenid sau này (650-330 TCN). Chúng đã phát triển qua các thế kỷ, nhưng tên các tháng thay đổi ít cho đến nay. Đế quốc Achaemenid thống nhất yêu cầu một lịch Iran đặc biệt, và một lịch được đề xuất theo truyền thống Ai Cập, với 12 tháng có 30 ngày, mỗi tháng dành cho một yazata (Eyzad), và bốn khoảng thời gian giống tuần Semitic. Bốn ngày mỗi tháng dành cho Ahura Mazda và bảy ngày được đặt tên theo sáu Amesha Spentas. Mười ba ngày được đặt tên theo Lửa, Nước, Mặt Trời, Mặt Trăng, Tiri và Geush Urvan (linh hồn của tất cả các loài động vật), Mithra, Sraosha (Soroush, yazata của lời cầu nguyện), Rashnu (thẩm phán), Fravashi, Bahram (yazata của chiến thắng), Raman (Ramesh có nghĩa là hòa bình), và Vata, thần linh của gió. Ba ngày dành cho các thần nữ, Daena (yazata của tôn giáo và đại diện cho ý thức), Ashi (yazata của vận may) và Arshtat (công lý). Bốn ngày còn lại dành cho Asman (chúa trời hoặc thiên đường), Zam (đất), Manthra Spenta (Lời Thánh Bốn Phước) và Anaghra Raocha (Ánh Sáng Vô Tận của thiên đường). Sửa đổi bởi Parthia, Ardashir I, Hormizd I, Yazdgerd III. Parthia (nhà Arsacid) áp dụng hệ thống lịch tương tự với những sửa đổi nhỏ và tính thời kỳ từ năm 248 TCN, ngày họ kế vị người Seleucid. Tên tháng và ngày của họ là các phiên bản Parthian tương ứng với các phiên bản Avestan được sử dụng trước đây, khác nhau một chút so với các tên tiếng Ba Tư Trung cổ được sử dụng bởi nhà Sassanid. Ví dụ, trong thời kỳ Achaemenid, tháng tiếng Ba Tư hiện đại 'Day' được gọi là "Dadvah" (Nhà tạo dựng), trong tiếng Parthian là "Datush", và nhà Sassanid đặt tên là "Dadv/Dai" ("Dadar" trong Pahlavi). Vào tháng 4 năm 224, khi triều đại Parthian sụp đổ và bị thay thế bởi nhà Sasanid, vua mới Ardashir I hủy bỏ lịch Babylon chính thức và thay thế bằng lịch Zoroastrian. Điều này liên quan đến việc sửa đổi vị trí của "gahanbar", đã trượt lại trong các mùa từ khi chúng được cố định. Chúng được đặt vào tám tháng sau đó, giống như "epagemonai", những ngày "Gatha" hoặc "Gah" sau các bài thánh cổ Zoroastrian cùng tên. Các quốc gia khác như Armenia và Choresmia không chấp nhận thay đổi này. Sự hình thành của lịch Ba Tư hiện tại vào thế kỷ 11. Toghril Beg, người sáng lập của triều đại Seljuq, đã chọn Esfahan làm thủ đô của lãnh thổ và cháu trai ông là Malik-Shah đã trở thành vị vua của thành phố đó từ năm 1073. Một lời mời đã được gửi tới Khayyam từ Malik-Shah và từ quan chức của ông là Nizam al-Mulk, yêu cầu Khayyam đến Esfahan để thiết lập một Đài quan sát. Các nhà thiên văn hàng đầu khác cũng đã được đưa đến Đài quan sát ở Esfahan và trong 18 năm, Khayyam đã dẫn dắt các nhà khoa học và sản xuất công việc chất lượng xuất sắc. Trong thời gian này, Khayyam đã làm việc để biên soạn các bảng thiên văn và ông cũng đóng góp vào việc cải cách lịch năm 1079. Cowell trích dẫn từ "Calcutta Review" số 59: Khayyam đo đạc độ dài của năm là 365.24219858156 ngày. Hai nhận xét về kết quả này. Thứ nhất, nó cho thấy một sự tự tin đáng kinh ngạc để cố gắng đưa ra kết quả với mức độ chính xác như vậy. Hiện nay chúng ta biết rằng độ dài của năm đang thay đổi ở chỗ thập phân thứ sáu trong suốt cuộc đời một người. Thứ hai, nó là đáng kinh ngạc về mức độ chính xác. Để so sánh, độ dài của năm vào cuối thế kỷ 19 là 365.242196 ngày, trong khi ngày nay là 365.242190 ngày. Hy Lạp cổ đại. Người Hy Lạp, từ thời Homer, dường như đã quen thuộc với việc chia năm thành mười hai tháng trăng nhưng không đề cập đến tháng nhuận "Embolimos" hoặc ngày. Ngoài việc chia một tháng thành các ngày, nó được chia thành các giai đoạn theo sự tăng giảm của mặt trăng. Do đó, ngày đầu tiên hoặc mặt trăng mới được gọi là "Noumenia". Tháng mà năm bắt đầu, cũng như tên của các tháng, khác nhau giữa các quốc gia và ở một số nơi thậm chí không có tên cho các tháng, vì chúng chỉ được phân biệt bằng số, như tháng thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, vv. Lịch Attica cổ đại là một lịch lunisolar với các năm 354 ngày, bao gồm mười hai tháng có độ dài xen kẽ là 29 hoặc 30 ngày. Để đồng bộ lịch với năm mặt trời 365.242189 ngày, một tháng nhuận được thêm vào trong các năm: 3, 6, 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ Metonic 19 năm. Xem Về cấu trúc của Lịch Attica Các tháng của Athens được gọi là Hekatombion, Metageitnion, Boedromion, Pyanepsion, Maimakterion, Poseidon, Gamelion, Anthesterion, Elaphebolion, Munychion, Thargelion và Skirophorion. Tháng nhuận thường đến sau Poseidon và được gọi là Poseidon thứ hai. Xem thêm: Lịch Attica. Học viện Episteme cung cấp một phiên bản khôi phục của Lịch Attica. Ngoài lịch "lễ hội" thông thường, người Athena duy trì một lịch "hội đồng" thứ hai, lịch chính trị. Lịch này chia năm thành "prytany", một cho mỗi "phylai", các đơn vị của công dân Athena. Số lượng phylai, và do đó số lượng prytany, thay đổi theo thời gian. Cho đến năm 307 TCN, có 10 phylai. Sau đó số lượng biến đổi từ 11 đến 13 (thường là 12). Thậm chí còn gây nhầm lẫn hơn, trong khi các năm của lịch hội và lễ hội có chiều dài gần như như nhau vào thế kỷ 4 TCN, điều này không phải lúc nào cũng đúng ở thời kỳ trước và sau đó. Các tài liệu được đặt ngày bằng prytany thường rất khó xác định tương đương với lịch Julian. Bảng Olympiads Hy Lạp, theo chu kỳ bốn năm giữa các Thế vận hội Hy Lạp từ 1 tháng 7 năm 776 TCN, tiếp tục cho đến cuối thế kỷ 4 sau CN. Kỷ Nguyên Babylonian của Nabonassar, bắt đầu từ 26 tháng 2 năm 747 TCN, được sử dụng bởi người Hy Lạp của Alexandria. Sau đó nó trở nên nổi tiếng trong thời Trung Cổ từ các tác phẩm của Ptolemy. Thời kỳ Helen. Các lịch Hy Lạp đã được đa dạng hóa rất nhiều trong thời kỳ Helen, với các truyền thống riêng biệt ở mỗi quốc gia Hy Lạp. Quan trọng nhất đối với việc khôi phục các lịch Hy Lạp khu vực là lịch của Delphi, vì có rất nhiều tài liệu được tìm thấy ở đó ghi lại việc giải phóng nô lệ, trong đó có nhiều văn bản được đặt ngày cả trong lịch Delphian và lịch khu vực. Kỷ Nguyên Macedonia của nhà Seleucid, bắt đầu từ sự chinh phục của Babylon bởi Seleucus I Nicator vào năm 312 TCN. Nó trở nên phổ biến ở Levant. Người Do Thái biết nó là "kỷ nguyên hợp đồng" và sử dụng nó ở châu Âu cho đến thế kỷ 15. Lịch Cộng hòa La Mã đánh số các năm dựa trên chủ tướng đương nhiệm. Tham chiếu đến năm chủ tướng được sử dụng cả trong cuộc trò chuyện và trong các hồ sơ chính thức. Người La Mã cùng gia đình thường có cùng "praenomen", điều đó đôi khi khiến việc phân biệt họ trở nên khó khăn và có hai chủ tướng trong cùng một thời điểm, mỗi người có thể đảm nhận chức vụ này nhiều lần, điều này có nghĩa là cần phải có kiến thức lịch sử tốt để hiểu các tham chiếu. Người La Mã có một tuần gồm tám ngày, với ngày chợ diễn ra cứ tám ngày một lần. Nó được gọi là "nundinum" hoặc 'chín ngày' trong đếm bao hàm. Hầu hết các lịch Hindu khu vực địa phương là kế thừa từ hệ thống được tiêu chuẩn hóa trong thiên văn học Hindu cổ điển thông qua sự truyền bá của Hoa Kỳ vào những thế kỷ cuối BC và đã được cải cách bởi các nhà thiên văn học thời kỳ Gupta như Aryabhata và Varāhamihira. Trung Quốc. Trước thời kỳ Thời kỳ Xuân Thu (trước năm 770 TCN), lịch Trung Quốc là lịch mặt trời. Trong lịch ngũ hành gọi là lịch năm ngũ hành, một năm bao gồm 10 tháng và một giai đoạn chuyển đổi, mỗi tháng kéo dài 36 ngày và giai đoạn chuyển đổi kéo dài 5 hoặc 6 ngày. Trong thời kỳ Thời kỳ Quân Chuẩn (~475–220 TCN), các lịch mặt trăng mặt trời nguyên thủy được thiết lập dưới triều đại Chu, được biết đến là sáu lịch cổ (). Các tháng trong những lịch này bắt đầu vào ngày trăng mới, với 12 hoặc 13 tháng (tháng trăng) trong một năm. Tháng nhuận được đặt ở cuối năm. Ở Trung Quốc triều Đại Khâm, lịch Đại Khâm () được giới thiệu. Nó tuân theo quy tắc của lịch Chuẩn Hư, nhưng thứ tự tháng theo lịch Hà. Vedic và thời kỳ Tiền-Vedic / Ấn Độ cổ đại. Việc đo thời gian đã quan trọng đối với các nghi lễ Veda, và "Jyotisha" là lĩnh vực theo dõi và dự đoán các chuyển động của các hành tinh trong việc theo dõi thời gian, nhằm xác định ngày và giờ của những nghi lễ này, được phát triển vào cuối thế kỷ 2 TCN như đã đề cập trong "Sathapatha Brahmana". Việc nghiên cứu này là một trong sáu "Vedanga" cổ xưa, hoặc các ngành khoa học phụ liên quan đến các Veda - các kinh thánh của Đạo Hindu, được trích dẫn bởi nhà học giả Yaska vào thế kỷ 5 TCN. Văn bản Jyotisha cổ xưa là "Vedanga-Jyotisha", tồn tại dưới hai phiên bản, một liên quan đến Rigveda và một liên quan đến Yajurveda. Phiên bản Rigveda được cho là của thiền sư Lagadha, và đôi khi được cho là của thiền sư Shuci. Phiên bản Yajurveda không ghi công cho bất kỳ thiền sư cụ thể nào, đã tồn tại cho đến thời hiện đại với bình luận của Somakara và là phiên bản được nghiên cứu nhiều hơn. Sách Jyotisha "Brahma-siddhanta", có lẽ được soạn vào thế kỷ 5 sau CN, thảo luận về cách sử dụng chuyển động của các hành tinh, mặt trời và mặt trăng để giữ thời gian và lịch. Sách này cũng liệt kê các công thức tam giác và toán học để hỗ trợ lý thuyết về quỹ đạo, dự đoán vị trí của các hành tinh và tính toán vị trí trung bình tương đối của các điểm nút và điểm xa nhất của thiên thể. Sách này đáng chú ý vì nêu các số nguyên cực lớn, chẳng hạn như 4,32 tỷ năm là tuổi thọ của vũ trụ hiện tại. Đồng hồ nước và đồng hồ mặt trời được đề cập trong nhiều văn bản Hindu cổ như Arthashastra. Các văn bản Jyotisha trình bày các công thức toán học để dự đoán độ dài thời gian ngày, bình minh và chu kỳ mặt trăng. Lịch Hindu hiện đại, thường được gọi là "Panchanga", là thuật ngữ chung cho các lịch nguyên tắc mặt trăng-mặt trời được truyền thống sử dụng trong Hinduism. Chúng áp dụng một khái niệm cơ bản tương tự trong việc theo dõi thời gian, nhưng khác nhau về việc tập trung tương đối vào chu kỳ mặt trăng hay chu kỳ mặt trời, tên các tháng và thời điểm bắt đầu Năm mới. Lịch Hindu cổ đại tương tự về thiết kế khái niệm với lịch Do Thái, nhưng khác với lịch Gregorian. Không giống với lịch Gregorian, nơi thêm các ngày bổ sung vào tháng mặt trăng để điều chỉnh sự không khớp giữa mười hai chu kỳ mặt trăng (354 ngày mặt trăng) và gần 365 ngày mặt trời, lịch Hindu duy trì tính nguyên vẹn của tháng mặt trăng, nhưng chèn một tháng đầy bổ sung theo các quy tắc phức tạp, mỗi vài năm, để đảm bảo các lễ hội và nghi lễ liên quan đến mùa vụ diễn ra đúng thời điểm phù hợp. Lịch Hindu đã được sử dụng ở lục địa Ấn Độ từ thời cổ đại, và vẫn được sử dụng bởi người Hindu ở Ấn Độ và Nepal, đặc biệt để xác định ngày lễ Hindu. Cộng đồng Phật giáo và Jain giáo sớm của Ấn Độ đã áp dụng lịch Hindu cổ đại, sau đó là lịch Vikrami và sau đó là các lịch Phật giáo địa phương. Các lễ hội Phật giáo và Jain vẫn được lên lịch theo hệ thống mặt trăng trong lịch luni-solar. Đế quốc La Mã. Năm cũ của La Mã có 304 ngày chia thành 10 tháng, bắt đầu từ Tháng Ba. Tuy nhiên, nhà sử học cổ đại Livy ghi công cho vị vua thứ hai của La Mã, Numa Pompilius, đã tạo ra một lịch gồm 12 tháng. Hai tháng bổ sung "Ianuarius" và "Februarius" được phát minh, theo giả thiết của Numa Pompilius, như là những tháng dự phòng. Julius Caesar nhận ra rằng hệ thống đã trở nên không thể hoạt động được, vì vậy ông đã thực hiện những thay đổi mạnh mẽ trong năm của nhiệm kỳ lãnh đạo thứ ba của mình. Năm mới trong 709 AUC bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 và kéo dài qua 365 ngày cho đến ngày 31 tháng 12. Các điều chỉnh tiếp theo được thực hiện dưới thời Augustus, người đã giới thiệu khái niệm "năm nhuận" trong 757 AUC (AD 4). Kết quả là lịch Julius đã tiếp tục được sử dụng rộng rãi ở châu Âu cho đến năm 1582, và ở một số quốc gia cho đến thế kỷ XX. Marcus Terentius Varro giới thiệu kỷ nguyên "Ab urbe condita", giả sử sự thành lập của Rome vào năm 753 TCN. Hệ thống này được sử dụng trong thời kỳ Trung cổ đầu cho đến khi kỷ nguyên Dionysian được áp dụng rộng rãi trong thời kỳ Phục hưng Carolingian. Trong Đế quốc La Mã, năm AUC có thể được sử dụng song song với năm quan tòa, để xác định nhiệm kỳ lãnh đạo của Quintus Fufius Calenus và Publius Vatinius có thể xác định là 707 AUC (hoặc 47 TCN), nhiệm kỳ lãnh đạo thứ ba của Caius Julius Caesar, với Marcus Aemilius Lepidus, là 708 AUC (hoặc 46 TCN), và nhiệm kỳ lãnh đạo thứ tư của Gaius Julius Caesar là 709 AUC (hoặc 45 TCN). Tuần gồm 7 ngày có một truyền thống kéo dài từ khu vực gần Đông cổ, nhưng việc giới thiệu "tuần hành tinh" vẫn được sử dụng đến ngày nay xuất phát từ thời kỳ Đế quốc La Mã (xem thêm tên các ngày trong tuần). Trung cổ. Châu Âu Kitô giáo. Cuốn lịch các vị thánh cổ nhất của Giáo hội La Mã được biên soạn vào giữa thế kỷ 4, dưới thời của Giáo hoàng Julius I hoặc Giáo hoàng Liberius. Nó chứa cả các lễ hội phe tín và Kitô giáo. Bản sao bảng Lịch Filocalus có thời gian tồn tại lâu nhất của lịch Kitô giáo sớm là bản được sản xuất vào năm 354. Một danh sách các vị thánh dài hơn được biên soạn bởi Jerome vào đầu thế kỷ 5. Jean Mabillon xuất bản một lịch của nhà thờ Carthage được thực hiện vào khoảng năm 483. Kỷ nguyên Anno Domini được giới thiệu vào thế kỷ 6. Các lịch còn lại từ thời kỳ trung cổ đầu dựa trên hệ thống đánh số của Jerome về các năm trong chu kỳ chu kỳ Metonic, sau được gọi là số vàng. Một lịch thời kỳ Carolingian được xuất bản bởi Luc d'Achery có tiêu đề "Incipit Ordo Solaris Anni cum Litteris a S. Hieronymo superpositis, ad explorandum Septimanae Diem, et Lunae Aetatem investigandam in unoquoque Die per xix Annos." ("đây bắt đầu là trật tự của năm mặt trời với các chữ cái được đặt bởi Thánh Jerome, để tìm ngày trong tuần và tuổi của Mặt Trăng cho bất kỳ ngày nào trong [chu kỳ] 19 năm"). "Leiden Aratea", một bản sao Carolingian (được ngày 816) của một bài luận thiên văn học của Germanicus, là một nguồn quan trọng về việc truyền tải lịch Kitô giáo cổ đại đến thời kỳ trung cổ. Vào thế kỷ 8, nhà sử học Anglo-Saxon Bede the Venerable sử dụng thuật ngữ Latin khác, "ante uero incarnationis dominicae tempus" ("thời gian trước ơn gọi thật sự của Chúa", tương đương với "trước Công Christ"), để xác định những năm trước năm đầu tiên của thời kỳ này. Theo Giáo hội Công giáo, ngay cả các vị Giáo hoàng vẫn tiếp tục đặt ngày theo năm nhiếp chính và việc sử dụng AD chỉ dần dần trở nên phổ biến ở châu Âu từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Năm 1422, Bồ Đào Nha trở thành quốc gia Tây Âu cuối cùng chấp nhận hệ thống "Anno Domini". Lịch Icelandic được giới thiệu vào thế kỷ 10. Trong khi các lịch cổ Đức học dựa trên tháng mặt trăng, lịch Icelandic mới giới thiệu một hệ thống tính toán dựa trên mặt trời thuần túy, với một năm có một số tuần cố định (52 tuần hoặc 364 ngày). Điều này đòi hỏi việc giới thiệu "tuần nhuận" thay vì các ngày nhuận của Julius. Năm 1267, nhà khoa học Trung cổ Roger Bacon xác định thời gian trăng tròn bằng số giờ, phút, giây, phân và giây ("horae", "minuta", "secunda", "tertia", và "quarta") sau buổi trưa vào các ngày cụ thể trong lịch. Mặc dù một phần ba của giây vẫn tồn tại trong một số ngôn ngữ, ví dụ như Tiếng Ả Rập ثالثة, giây hiện đại được chia thành các phần thập phân. Các kỷ nguyên lịch khác nhau so với "Anno Domini" vẫn được sử dụng ở châu Âu Kitô giáo. Ở Tây Ban Nha, "Kỷ nguyên của các Đế quốc" được đặt từ việc Octavian chinh phục Iberia vào năm 39 TCN. Nó đã được các Visigoths áp dụng và duy trì ở Catalonia cho đến năm 1180, Castile cho đến năm 1382 và Bồ Đào Nha cho đến năm 1415. Đối với mục đích định thời, hạn chế của hệ thống Anno Domini là các ngày phải được tính ngược hoặc tiến theo thứ tự nếu chúng là trước BC hoặc AD. Theo "Catholic Encyclopedia", "trong một hệ thống lý tưởng hoàn hảo, tất cả sự kiện sẽ được tính theo một chuỗi. Vấn đề là tìm một điểm khởi đầu mà tính từ đó, vì các sự bắt đầu của lịch sử mà nơi này nên được đặt một cách tự nhiên là những sự kiện mà chúng ta biết ít nhất về mặt thời gian." Đối với cả người Kitô giáo và người Do Thái, ngày chủ yếu trong lịch sử là Năm Sáng tạo, hoặc "Annus Mundi". Giáo hội Chính thống Đông phương xác định ngày Sáng tạo là 5509 TCN. Điều này đã là cơ sở của lịch hội thánh trong thế giới Hy Lạp và Chính thống Nga cho đến hiện nay. Giáo hội Công giáo Copt đã đặt vào 5500 TCN. Sau đó, Giáo hội Anh, dưới sự lãnh đạo của Đức Ussher vào năm 1650, chọn 4004 TCN. Lịch Hồi giáo. Lịch Hồi giáo dựa trên lệnh cấm thêm ngày nhuận ("nasi") do Muhammad ban hành, theo truyền thống Hồi giáo được ghi nhận là một bài giảng được tổ chức vào ngày 9 của tháng Dhu al-Hijjah năm thứ 10 AH (ngày Julian: 6 tháng 3 năm 632). Điều này đã dẫn đến việc dịch chuyển lịch mặt trăng dựa trên quan sát so với mùa trong năm mặt trời. Trong thời kỳ cai trị của triều đại Mughal, thuế đất được thu từ người Bengal theo lịch Hijri của Hồi giáo. Lịch này là một lịch mặt trăng, và năm mới của nó không trùng khớp với chu kỳ nông nghiệp mặt trời. Theo một số nguồn, Hoàng đế Mughal Akbar đã yêu cầu nhà thiên văn học triều đình của mình là Fathullah Shirazi để tạo ra một lịch mới bằng cách kết hợp lịch Hồi giáo mặt trăng và lịch Hindu mặt trời đã được sử dụng, và điều này được gọi là "Fasholi shan" (lịch thu hoạch). Theo Amartya Sen, lịch chính thức của Akbar "Tarikh-ilahi" với năm không là 1556 AD là sự kết hợp của lịch Hindu và lịch Hồi giáo đã tồn tại trước đó. Nó không được sử dụng nhiều ở Ấn Độ ngoài triều đình Mughal của Akbar, và sau khi ông qua đời, lịch ông ra mắt đã bị bỏ qua. Tuy nhiên, theo Sen, vẫn còn những dấu vết của "Tarikh-ilahi" tồn tại trong lịch Bengal. Một số nhà sử học cho rằng lịch Bengal có nguồn gốc từ vua Hindu thế kỷ 7 Shashanka. Khác. Lịch cổ Trung Hoa "Taichu" đã được cải tiến trong thời kỳ trung cổ. Lịch "Dàmíng" (), được tạo ra trong triều đại Lương bởi Zu Chongzhi, giới thiệu cách tính chính xác đến ngày xuân thu. Sử dụng một syzygy để xác định tháng mặt trăng đã được mô tả lần đầu trong lịch Tống "Wùyín Yuán" (). Triều đại Nguyên (thế kỷ 13/14) sử dụng lịch "Shòushí" () sử dụng trigonometri cầu để tìm độ dài của năm mặt trời. Lịch này có một năm 365,2425 ngày, giống với lịch Gregorian. Một số lịch địa phương khác được xây dựng lại tạm thời cho thời kỳ trung cổ. Những việc tái tạo này hầu như chỉ giới hạn trong việc liệt kê tên các tháng, như là trường hợp của lịch Germanic trước Công giáo cũng như lịch Bulgar, được cho là được sử dụng bởi người Bulgars vào thế kỷ 10, được tái tạo từ "Nominalia of the Bulgarian khans" vào thế kỷ 15. Trung Bộ châu Mỹ. Trong số tất cả các hệ thống lịch cổ đại, hệ thống lịch Maya và các hệ thống khác ở Trung Bộ châu Mỹ là phức tạp nhất. Lịch Maya có hai năm, đó là Chu kỳ Thần linh 260 ngày, hay còn gọi là "tzolkin", và Năm mập mờ 365 ngày, hay còn gọi là "haab". Chu kỳ Thần linh 260 ngày bao gồm hai chu kỳ nhỏ hơn: các số từ 1 đến 13 kết hợp với 20 tên ngày khác nhau: Imix, Ik, Akbal, Kan, Chicchan, Cimi, Manik, Lamat, Muluc, Oc, Chuen, Eb, Ben, Ix, Men, Cib, Caban, Eiznab, Cauac và Ahau. Chu kỳ Thần linh được sử dụng để xác định các hoạt động quan trọng liên quan đến các vị thần và con người: đặt tên cho cá nhân, dự đoán tương lai, quyết định ngày tốt lành cho các trận chiến, hôn nhân và những sự kiện khác. Hai chu kỳ 13 và 20 kết hợp và được lặp lại mà không bị gián đoạn: chu kỳ bắt đầu bằng số 1 Imix, sau đó là 2 Ik, rồi 3 Akbal và tiếp tục cho đến khi số 13 được đạt đến, khi đó chu kỳ số sẽ được khởi động lại, vì vậy sau 13 Ben sẽ là 1 Ix, 2 Men và cứ tiếp tục như vậy. Lần này Imix sẽ được đánh số là 8. Chu kỳ kết thúc sau 260 ngày, với ngày cuối cùng là 13 Ahau. Năm mập mờ 365 ngày tương tự với lịch Gregorian hiện đại, bao gồm 18 tháng với mỗi tháng có 20 ngày, kèm theo một khoảng thời gian không may mắn gồm năm ngày ở cuối. Năm mập mờ chủ yếu liên quan đến mùa vụ và nông nghiệp, và dựa trên chu kỳ mặt trời. Có 18 tháng Maya được biết đến theo thứ tự là: Pop, Uo, Zip, Zotz, Tzec, Xuc, Yaxkin, Mol, Chen, Yax, Zac, Ceh, Mac, Kankin, Maun, Pax, Kayab và Cumku. Khoảng thời gian không may mắn năm ngày được gọi là Uayeb, và được coi là một thời điểm có thể mang đến nguy hiểm, tử vong và xui xẻo. Năm mập mờ bắt đầu với tháng Pop. Mỗi tháng 20 ngày của Maya luôn bắt đầu bằng việc ngồi vào tháng đó, tiếp theo là các ngày được đánh số từ 1 đến 19, sau đó là việc ngồi vào tháng tiếp theo, và cứ tiếp tục như vậy. Điều này liên quan đến quan niệm của Maya rằng mỗi tháng ảnh hưởng đến tháng tiếp theo. Năm mới Maya sẽ bắt đầu bằng 1 Pop, tiếp theo là 2 Pop, cho đến tận 19 Pop, sau đó là việc ngồi vào tháng Uo, được viết là 0 Uo, sau đó là 1 Uo, 2 Uo và tiếp tục như vậy. Hai chu kỳ này trùng khớp mỗi 52 năm. Khoảng thời gian 52 năm được gọi là "gói" và tương tự như một thế kỷ hiện đại. Lịch hiện đại. Trong khi Lịch Gregorian hiện đang được sử dụng trên toàn cầu cho các mục đích thế tục, có các lịch Trung Cổ hoặc cổ đại khác vẫn được sử dụng ở các khu vực địa phương cho các mục đích tôn giáo hoặc xã hội, bao gồm lịch Lịch Julius, lịch Hệbrew, lịch Hồi giáo, các lịch Hindu khác nhau, lịch Zoroastrian, v.v. Cũng có các lịch hiện đại khác được sử dụng hạn chế, được tạo ra cho việc sử dụng của các phong trào tôn giáo mới hoặc phiên bản cải cách của các lịch tôn giáo cũ hơn, hoặc các lịch được giới thiệu bởi các phong trào vùng miền hoặc dân tộc.
7,904,256
19,805,272
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805272
Công quốc Firenze
Công quốc Firenze () là lãnh địa của thân vương có trung tâm là thành phố Firenze vùng Toscana nước Ý. Công quốc được thành lập sau khi Hoàng đế Charles V khôi phục quyền cai trị Firenze của nhà Medici vào năm 1530. Giáo hoàng Clêmentê VII, bản thân là người nhà Medici, đã bổ nhiệm người họ hàng của mình là Alessandro de' Medici lên làm Công tước Cộng hòa Firenze, qua đó biến nước Cộng hòa Firenze thành một chế độ quân chủ cha truyền con nối. Công tước đời thứ hai là Cosimo I đã thành lập một lực lượng hải quân Firenze hùng mạnh và mở mang lãnh địa của mình, thu hồi Elba và chinh phục Siena. Năm 1569, Giáo hoàng tuyên bố Cosimo là Đại Công tước Toscana. Dòng họ Medici cai trị Đại Công quốc Toscana cho đến tận năm 1737. Nguồn gốc và Hiến pháp. Firenze nằm dưới sự kiểm soát không chính thức của nhà Medici từ năm 1434. Trong chiến tranh Liên minh Cognac, người Firenze nổi dậy chống lại nhà Medici, lúc đó do Ippolito de' Medici đại diện, và khôi phục lại nền tự do cho nước cộng hòa của họ. Sau khi nước cộng hòa đầu hàng trong trận vây hãm Firenze, Hoàng đế La Mã Thần thánh Charles V đã ban hành một chỉ dụ tuyên bố rõ ràng rằng chỉ mình ông mới có thể quyết định chính quyền của Firenze. Ngày 12 tháng 8 năm 1530, Hoàng đế tạo ra các nhà cai trị cha truyền con nối dòng họ Medici ("capo") của "Cộng hòa" Firenze. Giáo hoàng Clêmentê VII dự định đưa người họ hàng của mình là Alessandro de' Medici lên làm người cai trị Firenze, nhưng cũng muốn tạo ấn tượng rằng người Firenze đã chọn Alessandro làm người cai trị của họ một cách dân chủ. Danh hiệu "Công tước xứ Firenze" được chọn vì nó sẽ củng cố quyền lực của nhà Medici trong khu vực. Tháng 4 năm 1532, Giáo hoàng đã thuyết phục được "Balía", ủy ban cai trị Firenze, soạn thảo một hiến pháp mới, chính thức tạo ra chế độ quân chủ cha truyền con nối. Ủy ban này bèn bãi bỏ cơ quan "signoria" (chính phủ dân cử) lâu đời và chức vụ "gonfaloniere" (người đứng đầu nhà nước trên danh nghĩa được bầu với nhiệm kỳ hai tháng) và thay thế nó bằng ba thể chế sau đây: Triều đại của Alessandro. Ngay cả sau khi Alessandro lên ngôi, quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh vẫn đóng quân ở Firenze. Năm 1535, một số gia đình Firenze nổi tiếng, bao gồm cả Pazzi (kẻ đã cố giết Lorenzo de' Medici trong biến cố gọi là Âm mưu Pazzi) liền cử một phái đoàn dưới quyền Ippolito de' Medici yêu cầu Charles V phế truất Alessandro. Trước sự thất vọng của họ, Hoàng đế đã bác bỏ lời kháng nghị của phái đoàn này. Charles không có ý định phế truất Alessandro do ông này kết hôn với cô con gái của Charles là Margaret xứ Parma. Alessandro tiếp tục cai trị Firenze trong hai năm nữa cho đến khi ông bị người họ hàng xa là Lorenzino de' Medici sát hại vào ngày 1 tháng 1 năm 1537. Triều đại của Cosimo I. Vì Alessandro không có con cái hợp pháp nào, nên câu hỏi về quyền kế vị vẫn còn bỏ ngỏ. Chính quyền Firenze đã chọn Cosimo I vào năm 1537. Khi biết tin này, gia đình Strozzi bị lưu đày bèn dấy quân xâm chiếm và cố gắng hạ bệ Cosimo, nhưng bị đánh bại tại Montemurlo. Cosimo đã đại tu hoàn toàn bộ máy quan liêu và chính quyền của Firenze. Năm 1542, quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh của Charles V đang đóng tại Firenze đành phải rút lui. Năm 1548, Cosimo được Charles V trao cho Elba và đặt đại bản doanh lực lượng hải quân mới đang phát triển của ông tại đây. Cosimo thành lập thành phố cảng Livorno và cho phép cư dân thành phố được hưởng quyền tự do tôn giáo. Liên minh với Tây Ban Nha và Đế quốc La Mã Thần thánh, Cosimo đánh bại đại quân của Cộng hòa Siena vốn đang liên minh với Pháp, trong trận Marciano vào ngày 2 tháng 8 năm 1554. Ngày 17 tháng 4 năm 1555, Firenze và Tây Ban Nha chiếm đóng lãnh thổ Siena mà về sau được Hoàng đế Philip II của Tây Ban Nha ban tặng cho Cosimo làm thái ấp cha truyền con nối vào tháng 7 năm 1557. Gia đình công tước đã chuyển đến Palazzo Pitti vào năm 1560. Cosimo ủy quyền cho kiến trúc sư Vasari xây dựng Uffizi, làm văn phòng cho ngân hàng Medici, tiếp tục truyền thống bảo trợ nghệ thuật của nhà Medici. Năm 1569, Cosimo được Giáo hoàng Piô V tấn phong làm Đại Công tước Toscana vào năm 1569. Nhà Medici tiếp tục nắm quyền cai trị Đại Công quốc Toscana cho đến khi gia tộc này bị tận diệt vào năm 1737.
7,904,260
19,805,273
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805273
Công quốc Lucca
Công quốc Lucca là một quốc gia nhỏ của Ý tồn tại từ năm 1815 đến năm 1847. Thủ đô là thành phố Lucca. Đến Đại hội Vienna năm 1815, Công quốc quay trở lại với Tuscany khi kết thúc dòng họ quân vương Bourbon-Parma hoặc khi dòng tộc này giành được một lãnh thổ khác, cả hai đều xảy ra vào năm 1847, khi Marie Louise xứ Áo qua đời và Bourbon-Parma khôi phục lại Công quốc Parma. Theo đạo luật cuối cùng của Đại hội Vienna, Công quốc Lucca sau này thuộc quyền sở hữu của Đại công quốc Toscana, đã bị Vương quốc Sardegna (Piemonte) sáp nhập vào năm 1860. Công quốc này do Đại hội Vienna thành lập vào năm 1815, ngoài Cộng hòa Lucca cũ và Thân vương quốc Lucca và Piombino từng nằm dưới sự cai trị của Elisa Bonaparte. Nó được tạo ra để bù đắp cho Nhà Bourbon-Parma vì đã để mất Công quốc Parma vốn được trao cho Marie Louise xứ Áo. Năm 1817, Maria Luisa xứ Tây Ban Nha, cựu Công chúa và Nữ vương xứ Etruria, nắm quyền cai trị Lucca. Bà cũng là mẹ của Charles Louis xứ Parma, người thừa kế xứ Parma của nhà Bourbon. Điều này tuân theo Hiệp ước Paris (1815), xác nhận cả địa vị chủ quyền của bà ở Lucca và địa vị của con trai bà là người thừa kế Parma nhằm kế vị Marie Louise. Sau cái chết của Maria Luisa vào năm 1824, Charles Louis nắm quyền điều hành công quốc này. Năm 1847, Charles kế thừa Công quốc Parma, và rời Lucca, nơi bị Đại công quốc Toscana sáp nhập. Từ năm 1815 đến năm 1818, quốc kỳ của Lucca có sọc ngang màu vàng và đỏ. Từ ngày 7 tháng 11 năm 1818, đến năm 1847, lá cờ này có màu trắng, với quốc huy của Maria Luisa và lá cờ vàng-đỏ trên tổng thể quốc kỳ.
7,904,261
19,805,282
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805282
Scherzo
Scherzo ( , ; số nhiều là scherzos hoặc scherzi), là thuật ngữ chỉ một sáng tác ngắn trong âm nhạc cổ điển phương Tây, đôi khi là một chương từ một tác phẩm lớn hơn như một bản giao hưởng hoặc một bản sonata. Định nghĩa chính xác về scherzo đã thay đổi qua thời gian dài, nhưng scherzo thường được đề cập tới như sự thay thế minuet trong chương thứ ba của một tác phẩm bốn chương, chẳng hạn như một bản giao hưởng, sonata hoặc tứ tấu đàn dây. Thuật ngữ này cũng có thể đề cập đến một sáng tác mang tính hài hước có tiết tấu nhanh có thể là một phần của tác phẩm đồ sộ hoặc không. Scherzo cũng mang tính là một điệu vũ. Tuy nhiên ở thời kì sáng tác của Beethoven, scherzo trở nên nhanh hơn và không còn mang tính vũ điệu nữa. Từ nguyên. Từ "scherzo" trong tiếng Ý có nghĩa là "trò đùa" hoặc "chơi đùa". Scherzo cũng có từ "badinerie" mang nghĩa tương tự nhưng hiếm hơn được sử dụng. Đôi khi từ "scherzando" ('đùa giỡn') được sử dụng trong ký hiệu âm nhạc để chỉ ra rằng một đoạn nhạc nên được diễn tấu một cách vui tươi. Việc sử dụng từ "scherzo" trong âm nhạc có nguồn gốc ban đầu trong những vở nhạc kịch nhẹ nhàng của thời kỳ đầu baroque, thường được gọi là "scherzi musicali", ví dụ: Sau đó, các nhà soạn nhạc đã áp dụng thuật ngữ "scherzo" (số nhiều là scherzos hoặc scherzi) và đôi khi là "badinerie" cho một số tác phẩm nhạc cụ có tiết tấu nhanh ở ký hiệu nhịp phân đôi, ví dụ:
7,904,265
19,805,290
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805290
Loneliness Society
Loneliness Society (; ; tạm dịch: Đôi ta cô đơn) là một bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Way-ar Sangngern (Joss) và Woranuch Bhirombhakdi (Nune). Bộ phim được lên kịch bản dựa trên phim điện ảnh "While You Were Sleeping" (1995) của Mỹ. Bộ phim được đạo diễn bởi Ekkasit Trakulkasemsuk và sản xuất bởi GMMTV cùng với Keng Kwang Kang Waisai. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim được phát sóng vào lúc 20:30 (), thứ Hai và thứ Ba trên GMM 25 và có mặt trên nền tảng trực tuyến Viu vào 22:30 (ICT) cùng ngày, bắt đầu từ ngày 5 tháng 6 năm 2023. Bộ phim kết thúc vào ngày 18 tháng 7 năm 2023.
7,904,267
19,805,316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805316
Yem Sambaur
Yem Sambaur (, ; 2 tháng 2 năm 1913 – Tháng 12 năm 1989) là chính khách Campuchia, từng hai lần giữ chức Thủ tướng Campuchia từ năm 1949 đến năm 1950. Sự nghiệp chính trị. Yem Sambaur là một nhân vật chính trị có ảnh hưởng ở Campuchia, chủ yếu trong những năm đầy biến động từ khi kết thúc Thế chiến thứ hai cho đến khi giành được độc lập cuối cùng vào năm 1953. Mặc dù Sambaur vẫn duy trì mối quan hệ thân thiết với hoàng tộc và giới tinh hoa truyền thống của xã hội Khmer, ban đầu là thành viên của Đảng Dân chủ Campuchia, một liên minh thiên tả gồm các nhóm ủng hộ nền độc lập ngay lập tức, một chính phủ Campuchia theo mô hình của Đệ tứ Cộng hòa Pháp và thông cảm với cuộc kháng chiến vũ trang của các phong trào du kích Khmer Issarak. Không hài lòng với những mục tiêu này, Sambaur rời Đảng Dân chủ vào tháng 11 năm 1948, cùng với 11 đại biểu khác, và liên kết với Đảng Tự do ("Kanak Sereipheap") dưới sự lãnh đạo của Hoàng thân Norodom Norindeth, được sự ủng hộ của Pháp và ủng hộ nền độc lập dần dần, một vị quân vương hùng mạnh và quan hệ chặt chẽ với Pháp. Sự đào tẩu của Sambaur khiến Đảng Dân chủ tạm thời suy yếu nghiêm trọng và cho phép nhiều phần tử cấp tiến hơn bao gồm Hu Nim, Ieng Sary và Saloth Sar (sau này gọi là Pol Pot), giành được ảnh hưởng trong đảng. Mặc dù Đảng Dân chủ sau đó đã bị giải thể vào năm 1957, nhưng những cái tên này sẽ ám ảnh Campuchia nhiều thập kỷ sau đó. Sau cái chết đột ngột của Thủ tướng Hoàng thân Sisowath Youtevong, nhà lãnh đạo và người sáng lập Đảng Dân chủ vào ngày 11 tháng 7 năm 1947, chính thể Campuchia non trẻ bất ổn đã chứng kiến ba chính phủ trong khoảng thời gian 18 tháng, tất cả đều do Đảng Dân chủ đứng đầu. Tháng 1 năm 1949, Sambaur trên cương vị là ủy viên cảnh sát đã vạch trần một vụ bê bối chính trị liên quan đến ngành ngư nghiệp của Campuchia khiến Thủ tướng Penn Nouth đành phải từ chức. Quốc vương Norodom Sihanouk sau đó đã thuyết phục chủ tịch Quốc hội Ieu Koeus bổ nhiệm Sambaur làm Thủ tướng mới. Ngày 1 tháng 2 năm 1949, Sambaur đứng ra thành lập chính phủ liên hiệp với các đại biểu của Đảng Tự do với sự hậu thuẫn của nhà vua và sự ủng hộ của người Pháp. Trong nhiệm kỳ của mình, ông liên tục bị Quốc hội do Đảng Dân chủ lãnh đạo phản đối và vấp phải sự chỉ trích của công chúng vì kế hoạch mở sòng bạc. Sự chỉ trích gia tăng khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục Meas Saem đóng cửa Lycee Sisowath để đáp lại các cuộc biểu tình. Chính phủ của Sambaur sụp đổ vào tháng 9 năm 1949. Đảng Dân chủ một lần nữa nắm quyền với Ieu Koeus là Thủ tướng. Chính quyền của ông kéo dài chín ngày cho đến khi Sihanouk mệt mỏi vì sự bất ổn của các bộ trưởng đã lợi dụng cách diễn đạt mơ hồ trong bản hiến pháp do Đảng Dân chủ soạn thảo và can thiệp. Khẳng định quyền lực mới được tuyên bố của mình, Nhà vua bèn giải tán Quốc hội, hoãn bầu cử và thành lập chính phủ mới mà không có một Quốc hội và bổ nhiệm Sambaur làm Thủ tướng một lần nữa. Là một đồng minh của Sihanouk, ông tiếp tục ủng hộ những nỗ lực của Shihanouk nhằm đạt được những nhượng bộ từ người Pháp và tiến tới độc lập. Sambaur từ chức vào tháng 4 năm 1950 và chính Sihanouk lên làm Thủ tướng. Hai mươi năm sau, sau cuộc đảo chính ở Campuchia năm 1970 phế truất Sihanouk và đưa Lon Nol lên nắm quyền, Sambaur đã viết một bài luận bảo vệ việc ông rút lại sự ủng hộ dành cho Nhà vua với nhan đề ("Tại sao chúng tôi bỏ rơi Sihanouk").
7,904,273
19,805,328
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805328
Trần Văn Bỉnh
Trần Văn Bỉnh (1916–1977), tên thường gọi là Bảy Thạng, là một nhà cách mạng và chỉ huy quân sự Việt Nam. Cuộc đời. Trần Văn Bỉnh sinh năm 1916 ở ấp Rạch Chèo, làng Tân Hưng Tây, quận Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu, nay là xã Tân Hưng Tây, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Năm 1939, ông gia nhập Hội Nông dân Phản đế làng Tân Hưng Tây, đồng thời là đội viên đội du kích làng (gồm 21 người, do Bí thư chi bộ Trần Văn Nhâm chỉ huy), thực hiện công tác huấn luyện để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa do Xứ ủy Nam Kỳ phát động. Cuối năm 1940, khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra. Năm 1941, ông bị thực dân Pháp bắt giữ. Năm 1942, ông ra tù và tiếp tục hoạt động tại cơ sở. Năm 1944, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông làm Bí thư chi bộ Tân Hưng Tây kiêm Trưởng Công an xã. Năm 1947, ông được cử làm Phó Bí thư Quận ủy Cà Mau, rồi Bí thư Quận ủy. Năm 1949, ông được điều sang huyện Ngọc Hiển giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy. Năm 1950, huyện Trần Văn Thời được thành lập, ông làm Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, không lâu sau thay Tô Văn Mười làm Bí thư Huyện ủy. Tháng 5 năm 1950, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Tỉnh ủy Bạc Liêu. Năm 1952, ông làm Tỉnh ủy viên chính thức. Tháng 10 năm 1954, ông được Xứ ủy chỉ định tham gia Tỉnh ủy bí mật tỉnh Bạc Liêu do Châu Văn Đặng làm Bí thư, Nguyễn Sấn làm Phó Bí thư, đảm nhận vai trò Ủy viên Thường vụ phụ trách giao thông căn cứ. Năm 1955, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Cuối năm 1956, đầu năm 1957, Tỉnh ủy Bạc Liêu giải thể, thành lập Tỉnh ủy Cà Mau, ông giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau được vài tháng thì được điều động về làm Ủy viên Thường vụ Liên Tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ. Trong thời gian này, ông đã chủ động chỉ huy quân dân chống trả lại các chiến dịch Tố Cộng, diệt Cộng của chính quyền Ngô Đình Diệm mà không chờ chỉ đạo từ cấp trên. Tháng 1 năm 1960, ông là người phát động "Đồng khởi" ở khu vực tỉnh Bạc Liêu cũ. Tháng 3 năm 1962, Liên Tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ chuyển thành Khu ủy miền Tây Nam Bộ (T3) gồm mười thành viên: Nguyễn Thành Thơ, Trần Văn Bỉnh, Lâm Văn Thê, Vũ Đình Liệu, Trần Văn Long, Phan Công Cương, Nguyễn Việt Châu, Dương Minh Cảnh, Phan Ngọc Sến, La Lâm Gia. Ông là Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy, giữ chức vụ Phó Bí thư Khu ủy. Năm 1969, ông là quyền Bí thư Khu ủy. Năm 1971, ông nghỉ dưỡng bệnh. Năm 1973, ông được Trung ương đưa sang Đông Đức điều trị. Năm 1975, ông trở về Cà Mau, được Thường vụ Trung ương Cục miền Nam chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy và trực tiếp sắp xếp nhân sự cho tỉnh mới được hợp nhất giữa hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tuy nhiên, do nguyên nhân sức khỏe nên ông không thể tiếp tục công tác. Ngày 21 tháng 1 năm 1976, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Cà Mau – Bạc Liêu được thành lập do Nguyễn Văn Đáng làm Bí thư, ông được nghỉ phép dài hạn để chữa bệnh. Ngày 22 tháng 1 năm 1977, ông qua đời vì bệnh nặng. Gia đình. Ông kết hôn với bà Huỳnh Thị Phàn, có bốn người con hai trai, hai gái. Hai con trai Trần Văn Thiệu và Trần Văn Thạng đều tham gia chiến đấu ở miền Nam. Vinh danh. Tên của ông được đặt cho một con đường cùng một con hẻm ở thành phố Cà Mau.
7,904,279
19,805,334
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805334
Powerball
Powerball là một trò chơi xổ số Mỹ được cung cấp bởi 45 tiểu bang, Quận Columbia, Puerto Rico và quần đảo Quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ. Nó được tổ chức bởi Hiệp hội Xổ số Đa bang (MUSL). Từ lần quay số đầu tiên vào ngày 19 tháng 4 năm 1992 đến ngày 21 tháng 8 năm 2021, Powerball được tổ chức hai lần mỗi tuần (thứ Tư và thứ Bảy); một lần quay số hàng tuần thứ ba (từ ngày 23 tháng 8 năm 2021) đã được thêm vào. Các buổi quay số diễn ra vào mỗi tối thứ Hai, thứ Tư và thứ Bảy lúc 10:59 giờ đông (Eastern Time), tại trụ sở của Florida Lottery ở Tallahassee. Kể từ ngày 7 tháng 10 năm 2015, trò chơi sử dụng ma trận 5/69 (bóng trắng) + 1/26 (Powerballs) để chọn các số trúng, dẫn đến tỷ lệ cơ hội trúng jackpot là 1 trong 292,201,338 cho mỗi lượt chơi. Mỗi lượt chơi có giá 2 đô la hoặc 3 đô la nếu chọn tùy chọn Power Play (ban đầu, mỗi lượt chơi Powerball có giá 1 đô la; khi Power Play bắt đầu, giá trò chơi tương tự là 2 đô la). Thời gian chốt vé chính thức là 10:00 giờ đông (Eastern Time); một số xổ số có thể chấm dứt bán vé sớm hơn. Các buổi quay số được tổ chức tại phòng thu của Florida Lottery ở Tallahassee. Giải jackpot tối thiểu của Powerball là 20 triệu đô la (theo hình thức trả theo niên hạn); giải jackpot theo niên hạn của Powerball được trả trong 30 kỳ trả góp tăng dần trong vòng 29 năm, hoặc người chiến thắng có thể chọn nhận một khoản thanh toán tổng thể thay vì (tùy chọn tiền mặt). Một khoản thanh toán tổng thể sẽ nhỏ hơn tổng số 30 kỳ trả hàng năm vì với tùy chọn trả theo niên hạn, mỗi kỳ trả hàng năm tăng thêm 5%. Vào ngày 8 tháng 2 năm 2023, Powerball đã tạo ra jackpot xổ số lớn nhất trong lịch sử được trúng bởi một vé mua tại Altadena, California. Các số trúng thưởng ban đầu được quay tại West Des Moines, Iowa, trước khi chuyển đến Universal Studios Florida ở Orlando. Quay số hiện diễn ra tại Tallahassee từ năm 2012. Các thành viên của Powerball. Powerball thay thế Lotto America vào tháng 4 năm 1992; Mega Millions thay thế The Big Game 10 năm sau đó (Xem dưới đây về sự phát triển của tên gọi "Mega Millions".). Mega Millions và Powerball. Alabama, Alaska, Hawaii, Nevada, và Utah không bán vé xổ số. Lịch sử. Tiền thân năm 1988: Lotto America. Tiền thân của Powerball bắt đầu vào năm 1988; trò chơi đa tiểu bang này được gọi là Lotto America. Trò chơi và tên đã được thay đổi thành Powerball vào ngày 19 tháng 4 năm 1992; buổi quay số đầu tiên diễn ra vào ngày 22 tháng 4. Tiến sĩ Edward J. Stanek là chủ tịch của Lotô Iowa và cùng với Steve Caputo đã tạo ra trò chơi Powerball. Bắt đầu Powerball. Khi ra mắt vào năm 1992, Powerball trở thành trò chơi đầu tiên sử dụng hai thùng quay. Việc sử dụng hai thùng quay cho phép tăng cường khả năng điều chỉnh bằng cách đồng thời cung cấp tỷ lệ cơ hội trúng jackpot thấp, nhiều cấp độ giải thưởng và tỷ lệ cơ hội trúng lớn chung (như được giải thích sau, một vé có thể trúng chỉ bằng cách khớp một số). Ý tưởng về hai thùng quay được đề xuất bởi Steve Caputo của Lotô Oregon. Ý tưởng về hai thùng quay đã được sử dụng bởi "The Big Game" (nay là Mega Millions) tại Mỹ, Powerball của Australia, Thunderball tại Vương quốc Anh, Eurojackpot và EuroMillions. Đến năm 2008, các buổi quay số Powerball thường được tổ chức tại Screenscape Studios ở West Des Moines, Iowa. Người dẫn chương trình là Mike Pace, một nhân vật nổi tiếng trên đài phát thanh Iowa, đã làm MC cho buổi quay số MUSL từ khi Lotto America bắt đầu vào năm 1988. Vào năm 1996, Powerball lần đầu tiên được tổ chức "trên đường" khi có năm buổi quay số từ xa tại Thế vận hội Mùa hè ở Atlanta. Một vài tuần sau đó, Georgia trở thành quốc gia duy nhất rời khỏi Powerball (Maine, đã gia nhập MUSL vào năm 1990, rời khỏi khi Powerball bắt đầu). Vào tháng 8 năm 1996, Georgia gia nhập "The Big Game", nhóm xổ số lớn khác ở Mỹ. Kế hoạch của Georgia là bán vé cho cả hai trò chơi trong phần còn lại của năm 1996, nhưng chỉ trong vài ngày, Georgia bị loại khỏi MUSL và không trở lại cho đến sự mở rộng bán chéo vào năm 2010. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1997, hình thức trả theo niên hạn được thay đổi từ 20 năm thành 25 năm; lựa chọn trả tiền mặt được thêm vào. Năm 1998, Florida được chính phủ cho phép tham gia vào trò chơi đa tiểu bang. Ban đầu, Florida dự định tham gia Powerball, nhưng vào đầu năm 1999, thống đốc mới Jeb Bush ngăn cản Florida tham gia vì ông tin rằng Powerball sẽ gây ảnh hưởng đến các trò chơi xổ số hiện có của Florida Lottery. Năm 2008, Thống đốc Charlie Crist cuối cùng đã cho phép Florida tham gia MUSL, vào ngày 4 tháng 1 năm 2009. Vào ngày 7 tháng 3 năm 2001, một lựa chọn tăng cường (gọi là "Power Play") đã được thêm vào, cho phép người chơi nhân đôi số tiền thắng không phải jackpot lên tới năm lần bằng cách trả thêm 1 đô la cho mỗi lượt chơi. Một bánh xe đã được giới thiệu để chọn bội số "Power Play" cho mỗi buổi quay số (năm sau đó, số "1x" đã bị loại bỏ khỏi bánh xe "Power Play"). 2009: Florida trở thành địa điểm tổ chức buổi quay số. Khi bắt đầu bán Powerball tại Florida vào ngày 4 tháng 1 năm 2009 (với buổi quay số đầu tiên vào ngày 7 tháng 1), ma trận số đã thay đổi thành 5/59 + 1/39 (thêm bốn số trắng và loại bỏ ba số đỏ). Điều này đã làm thay đổi khả năng trúng jackpot từ 1:146 triệu thành 1:195 triệu; tỷ lệ cơ hội trúng chung trở thành 1:35. Dựa trên dự báo thống kê, giải jackpot trung bình tăng từ 95 triệu đô la lên 141 triệu đô la. Dự kiến ​​sẽ có thêm hơn 3,5 triệu giải thưởng được trúng hàng năm do thay đổi tỷ lệ cơ hội. Giải jackpot khởi điểm tăng lên 20 triệu đô la, với mức tăng giới hạn tối thiểu là 5 triệu đô la. Phần đóng góp vào jackpot tăng từ 30,3% lên 32,5% tổng doanh thu. Tùy chọn Power Play đã được điều chỉnh; giải nhì, thường là 200.000 đô la, được nhân thêm 5 lần tự động, làm cho giải 5+0 trở thành 1 triệu đô la tiền mặt. Giải thưởng thứ hai phụ nếu jackpot vượt qua kỷ lục trước đó của nó 25 triệu đô la, chỉ xảy ra hai lần, đã bị loại bỏ khi thay đổi định dạng vào năm 2012. Điều kiện để Florida tham gia Powerball bao gồm việc di chuyển buổi quay số trực tiếp từ Iowa đến Universal Studios ở Orlando. Ba người dẫn chương trình luân phiên từ Universal Studios là Tracy Wiu, Elizabeth Hart và Scott Adams (trụ sở MUSL vẫn ở Iowa, nơi tổ chức các buổi quay số khác). Bánh xe được sử dụng để xác định bội số Power Play đã bị loại bỏ khi buổi quay số chuyển đến Florida; một bộ tạo số ngẫu nhiên (RNG) được sử dụng cho đến khi thay đổi định dạng vào năm 2012. Arkansas trở thành thành viên MUSL thứ 33 vào ngày 31 tháng 10 năm 2009, là thành viên cuối cùng gia nhập trước sự mở rộng bán chéo vào năm 2010. Ohio Lottery gia nhập Powerball vào ngày 16 tháng 4 năm 2010, gia nhập Mega Millions (cùng với New York) nhiều năm trước đó, khi "The Big Game" thêm "Mega Millions" vào tên của mình. Sự mở rộng bán chéo vào năm 2010. Vào tháng 3 năm 2009, có thông tin cho biết rằng New Jersey, đã là thành viên Mega Millions, tìm cách được phép tham gia Powerball. Ngay sau đó, đã tiết lộ cuộc thảo luận về việc cho phép mỗi xổ số ở Mỹ có thể cung cấp cả hai trò chơi. Vào ngày 13 tháng 10, liên minh Mega Millions và MUSL đạt được thỏa thuận nguyên tắc để bán chéo Mega Millions và Powerball. Vào tháng 11, MUSL ký kết một thỏa thuận để bắt đầu phát sóng trực tuyến các buổi quay số Powerball. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2010, ngày mở rộng bán chéo, Mega Millions và MUSL đã thêm các xổ số; tám thành viên Powerball đã thêm Mega Millions vào tháng 5. Lotô Montana gia nhập Mega Millions vào ngày 1 tháng 3 năm 2010. Nebraska gia nhập Mega Millions vào ngày 20 tháng 3 năm 2010, Oregon theo sau vào ngày 28 tháng 3 năm 2010, Arizona gia nhập Mega Millions vào ngày 18 tháng 4 năm 2010, Maine gia nhập Mega Millions vào ngày 9 tháng 5 năm 2010, Colorado và South Dakota gia nhập Mega Millions vào ngày 16 tháng 5 năm 2010. Quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ gia nhập Mega Millions vào tháng 10 năm 2010. Trước thỏa thuận này, chỉ có một số nơi bán cả vé Mega Millions và Powerball là các cửa hàng bán lẻ nằm sát biên giới; một cửa hàng bán lẻ ở biên giới Sharon, Pennsylvania/Masury, Ohio đã bán cả vé Mega Millions (qua Ohio Lottery) và Powerball (Pennsylvania) trước thỏa thuận và tiếp tục là cửa hàng bán lẻ duy nhất bán vé cho cả hai loại xổ số. Illinois gia nhập Powerball vào ngày mở rộng, trở thành trò chơi xổ số đa tiểu bang thứ hai (sau Mega Millions, mà Illinois đã tham gia trước đó) mà buổi quay số được phát sóng trên toàn quốc. Cả hai buổi quay số của trò chơi đều được phát sóng đồng thời thông qua kênh cáp Chicago WGN-TV qua phần phát sóng quốc gia WGN America. WGN-TV đã phát sóng buổi quay số xổ số Illinois trên toàn quốc từ năm 1992 đến 2015 sau khi mua quyền phát sóng từ đài truyền hình sở hữu và điều hành bởi Fox WFLD của Chicago vào năm 1988, sau khi lấy lại quyền từ WGN-TV vào năm 1987. Buổi quay số Powerball được phát sóng trên WGN-TV và WGN America vào thứ Tư và thứ Bảy ngay sau buổi tin tức 9:00 p.m. (Giờ Trung Hoa) còn buổi quay số Mega Millions được phát sóng vào thứ Ba và thứ Sáu sau buổi tin tức. WGN đã phục vụ như một đơn vị phát sóng mặc định của Mega Millions hoặc Powerball trong trường hợp không có đài truyền hình địa phương nào phát sóng buổi quay số cho cả hai trò chơi xổ số đa tiểu bang này. Vào ngày 13 tháng 3 năm 2010, New Jersey trở thành thành viên Mega Millions trước đó (ngay trước khi mở rộng bán chéo) có vé Powerball trúng jackpot. Giải thưởng này có giá trị hơn 211 triệu đô la dưới hình thức trả theo niên hạn; vé được bán tại Morris Plains. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2010, North Carolina trở thành thành viên MUSL trước đó (ngay trước khi mở rộng bán chéo) có vé Mega Millions trúng jackpot; giải thưởng đó là 12 triệu đô la (trả theo niên hạn). Vào ngày 2 tháng 6 năm 2010, Ohio đã trúng jackpot Powerball; trở thành xổ số bán "cả" Mega Millions "và" Powerball (khi năm 2010 bắt đầu) cung cấp vé trúng jackpot cho trò chơi mới hơn của mình. Giải thưởng đó có giá trị 261 triệu đô la dưới hình thức trả theo niên hạn; vé được bán tại Sunbury. Vé trúng jackpot Powerball thứ hai của Ohio, được bán trong buổi quay số vào ngày 23 tháng 6 năm 2010, là một phần của một sự kiện đầu tiên; vì Montana cũng đã có một người trúng jackpot cho buổi quay số đó, đó là lần đầu tiên một giải jackpot được chia sẻ thông qua các xổ số cạnh tranh trước khi mở rộng bán chéo, vì Montana chỉ bán Powerball trước ngày mở rộng. Thay đổi định dạng năm 2012. Vào ngày 15 tháng 1 năm 2012, giá vé của mỗi lượt chơi Powerball tăng gấp đôi lên 2 đô la, trong khi giá vé PowerPlay tăng lên 3 đô la; giải thưởng tối thiểu tăng gấp đôi lên 40 triệu đô la. Một lượt chơi không trúng jackpot khớp với năm quả bóng trắng sẽ nhận được 1 triệu đô la. Số quả bóng màu đỏ giảm từ 39 xuống còn 35. Buổi quay số đã được chuyển từ Universal Studios Orlando đến trụ sở của Florida Lottery ở Tallahassee. Sam Arlen bắt đầu công việc dẫn chương trình vào năm 2012, với Laura W. Johnson đồng làm người dẫn chương trình. Những thay đổi này đã được thực hiện để tăng tần suất xuất hiện giải jackpot hàng chục triệu đô la; một phát ngôn viên Powerball tin rằng một giải jackpot 500 triệu đô la là khả thi (và thực tế đã xảy ra trong năm đó,) và rằng giải jackpot đầu tiên trị giá 1 tỷ đô la trong lịch sử Hoa Kỳ sẽ xảy ra vào năm 2012 (mặc dù nó không xảy ra cho đến 4 năm sau đó.) Chưa đầy ba tháng sau các thay đổi về Powerball, giải jackpot của Mega Millions đã đạt 656 triệu đô la mặc dù vẫn chỉ là một trò chơi 1 đô la mỗi lượt chơi. Bội số "Power Play" ngẫu nhiên đã bị loại bỏ để thay bằng một khoản thanh toán cố định theo số tiền đã định. "Cận dương" 25 triệu đô la (tạo ra giải thưởng 5+0 lớn hơn) đã bị loại bỏ. California đã tham gia vào ngày 8 tháng 4 năm 2013; nó chưa bao giờ cung cấp tùy chọn Power Play, vì tất cả các khoản thanh toán trong các trò chơi xổ số California theo quy định của pháp luật đều là cá cược hoa hồng. Mega Millions, đã có mặt tại California từ năm 2005, cung cấp tùy chọn "Megaplier" ở 45 địa điểm khác. Vào ngày 22 tháng 1 năm 2014, tùy chọn Power Play có biến đổi trở lại (từ 2x-5x) để nhân giải thưởng không phải jackpot. Vào tháng 10 năm 2014, Puerto Rico đã tham gia Powerball; địa phương nói tiếng Tây Ban Nha đầu tiên tham gia trò chơi này; tính đến năm 2016, Puerto Rico vẫn chưa tham gia Mega Millions. Thay đổi định dạng năm 2015. Vào ngày 4 tháng 10 năm 2015, định dạng Powerball đã thay đổi một lần nữa; số trái bóng trắng tăng từ 59 lên 69 trong khi số trái bóng Powerball giảm từ 35 xuống 26. Mặc dù điều này cải thiện khả năng chiến thắng giải thưởng bất kỳ thành 1 trong 24, nhưng cũng làm tăng khả năng giành giải jackpot lên 1 trong 292.201.338. Giải thưởng 4+1 trở thành 50.000 đô la; tùy chọn PowerPlay 10x được áp dụng trong các lượt quay có giải jackpot dưới 150 triệu đô la. Ba tháng sau đó, định dạng này tạo ra một giải jackpot 1,5 tỷ đô la, gấp đôi kỷ lục trước đó, sau 20 lượt quay liên tiếp. Các điều chỉnh COVID-19 năm 2020 và việc tạm thời loại bỏ ở Idaho năm 2021. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2020, số tiền giải jackpot khởi điểm của Powerball tạm thời được thiết lập lại từ 40 triệu đô la xuống 20 triệu đô la với tùy chọn trả dần, với ít nhất 2 triệu đô la được chuyển tiếp cho mỗi lượt quay không có người trúng jackpot, do đại dịch COVID-19 ở Hoa Kỳ. Điều này được thực hiện để áp dụng sự cách ly xã hội và ngăn chặn sự tập trung đông đúc tại các điểm bán vé với giải jackpot lớn, và để tính đến lãi suất thấp hơn. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2021, sau khi Powerball mở rộng hoạt động của mình tại Úc vào cuối năm đó và tại Vương quốc Anh vào năm 2022, Hội đồng Tại chức Idaho đã bỏ phiếu áp đảo để chấm dứt sự tham gia của tiểu bang này trong xổ số sau hơn 30 năm. Các nhà lập pháp tiểu bang đã trích dẫn nỗi sợ rằng doanh thu từ bên ngoài được tạo ra từ sự tham gia của các nước ngoài là nguyên nhân đằng sau việc bỏ phiếu này. Việc loại bỏ sẽ diễn ra khi các khu vực bên ngoài Mỹ được phép tham gia vào tháng 8 năm 2021, nhưng đã trở nên vô nghĩa khi việc mở rộng này bị hoãn lại. Vào ngày 23 tháng 5 năm 2021, Powerball thông báo rằng bắt đầu từ ngày 23 tháng 8 năm 2021, các lượt quay sẽ diễn ra vào thứ Hai, bên cạnh thứ Tư và thứ Bảy. Do sự cố kỹ thuật xảy ra trước khi lịch quay mới bắt đầu, lượt quay thứ Hai đầu tiên không diễn ra vào thời gian thông thường, có nghĩa là lượt quay thứ Hai đầu tiên không diễn ra như đã được dự định cho nhóm điều hành trò chơi. Tất cả các tính năng khác vẫn không thay đổi. Michele Lyles trở thành người dẫn chương trình Powerball thường xuyên thứ ba phục vụ cùng với Arlen và Johnson. Bắt đầu từ năm 2022, Randy Trainor làm người dẫn chương trình dự phòng nếu Arlen, Johnson hoặc Lyles không có mặt. Trì hoãn năm 2022. Lượt quay dự kiến vào ngày 7 tháng 11 năm 2022 với giải jackpot phá kỷ lục 2,04 tỷ USD đã bị trì hoãn do các giao thức bảo mật chưa hoàn chỉnh liên quan đến việc bán vé tại một cơ sở xổ số chưa được tiết lộ cho đến ngày hôm sau vào 8:59 sáng theo giờ Đông Bắc. Trước sự trì hoãn ngày 7 tháng 11, đã có các trì hoãn vào ngày 9 tháng 4 và ngày 19 tháng 10 và vào ngày 16 tháng 3 năm 2022. Một vài ngày sau khi quay số kết thúc cho Giải Jackpot Powerball 2,04 tỷ USD, Sở Xổ số Minnesota thông báo vào cuối ngày hôm đó rằng họ đã chịu trách nhiệm cho sự trì hoãn đó. Các quan chức xổ số ở đó cho biết có một vấn đề kỹ thuật với hệ thống truyền thông đã ngăn quay số diễn ra. Đại lý chính thức quốc tế. The Lottery Office. The Lottery Office là đại lý chính thức của Powerball Hoa Kỳ tại Úc. Chơi trò chơi. Trò chơi cơ bản. Cược tối thiểu cho Powerball là 2 đô la. Trong mỗi trò chơi, người chơi chọn 5 số từ một tập hợp gồm 69 quả bóng màu trắng và một số từ 26 quả bóng Powerball màu đỏ; số quả bóng đỏ có thể trùng với một trong các quả bóng màu trắng. Thứ tự quay số của năm quả bóng màu trắng không quan trọng; tất cả vé đều hiển thị số quả bóng màu trắng theo thứ tự tăng dần. Người chơi không thể sử dụng quả bóng Powerball đã quay được để khớp với một trong các số màu trắng của họ, hoặc ngược lại. Người chơi có thể chọn số của riêng mình hoặc để máy bán hàng chọn số ngẫu nhiên (cách gọi này thay đổi theo từng tiểu bang, nhưng phần lớn được gọi là "quick pick", "easy pick", vv.). Trong mỗi lượt quay, các số may mắn được chọn bằng hai máy quay bóng: một máy chứa các quả bóng màu trắng và máy khác chứa các quả bóng Powerball màu đỏ. Năm quả bóng màu trắng được rút ra từ máy đầu tiên và quả bóng đỏ từ máy thứ hai. Các trò chơi khớp ít nhất ba quả bóng màu trắng hoặc quả bóng Powerball màu đỏ sẽ thắng. Hai máy giống nhau được sử dụng cho mỗi lượt quay, được chọn ngẫu nhiên từ bốn bộ máy. Mẫu máy được sử dụng là Halogen, do Smartplay International của Edgewater Park, New Jersey sản xuất. Có tám bộ bóng (bốn bộ màu trắng và bốn bộ màu đỏ); một bộ của mỗi màu được chọn ngẫu nhiên trước mỗi lượt quay. Các quả bóng được trộn bằng một đĩa xoay ở đáy máy, đẩy các quả bóng quanh buồng. Khi máy chọn một quả bóng, đĩa xoay chậm lại để bắt nó, gửi nó lên trục và sau đó dẫn xuống đường ray để hiển thị. (Cục Xổ số Florida đã xem xét chuyển sang một bộ sinh số ngẫu nhiên vào năm 2019 cho các lượt quay trong tiểu bang của mình; chưa biết liệu Powerball có bị ảnh hưởng hay không.) Nếu nơi diễn ra lễ quay số không khả dụng, như trường hợp của Hurricane Michael, một máy dự phòng được đặt tại trụ sở MUSL ở Iowa. Các lượt quay được giám sát bởi Carol & Company, CPA. Các ma trận kép và xác suất trong lịch sử của trò chơi: † "Power Play" được giới thiệu vào năm 2001. ‡ 10× có sẵn nếu giải thưởng Jackpot dưới 150 triệu đô la. Mặc dù Mega Millions và Powerball có cùng xác suất trúng Jackpot mặc dù có ma trận kép khác nhau (Mega Millions là 5/70 + 1/25), nhưng vì Powerball có giá 2 đô la cho mỗi lượt chơi, trung bình cần 584.402.676 đô la (không tính cược bên cạnh Power Play) để tạo ra một vé trúng Jackpot. Power Play. Với mỗi trò chơi thêm 1 đô la, người chơi có thể kích hoạt tùy chọn Power Play. Khi kích hoạt, Power Play nhân lên số tiền thắng giải hạng thấp (giải thưởng cơ bản từ 50.000 đô la trở xuống) lên tới 5 lần, hoặc 10 lần khi giải thưởng Jackpot dưới 150 triệu đô la. Power Play được quay riêng biệt so với 6 số chính. Giải thưởng 5+0 tự động được gấp đôi lên 2 triệu đô la nếu Power Play được kích hoạt. Vấn đề đối với người chơi là liệu nên tối đa hóa cơ hội trúng Jackpot hay tăng giải thưởng hạng thấp hơn. Nếu người chơi chọn một số tiền cố định để mua vé vào một thời điểm nhất định, người chơi sẽ mất đi một lần dự đoán đúng của bộ số thắng mỗi hai lần kích hoạt Power Play đối với một trong những vé đã mua. Khi Power Play được ra mắt vào năm 2001, nó được quay với một chiếc bánh xe đặc biệt. Vào năm 2006 và 2007, MUSL đã thay thế một trong các chỗ trống 5× trên bánh xe Power Play bằng 10×. Trong mỗi chương trình khuyến mãi kéo dài một tháng, MUSL đảm bảo sẽ có ít nhất một lần quay với bội số 10×. Chương trình khuyến mãi được tái mở vào năm 2008; quả bóng rơi vào chỗ 10× hai lần. Sau khi vắng mặt vào năm 2009, bội số 10× trở lại vào tháng 5 năm 2010 (sau khi quay Power Play đã được thay đổi thành RNG.) Chương trình khuyến mãi được kéo dài duy nhất một lần, khi bội số 10× không được quay cho đến ngày 12 tháng 6 năm 2010. Bảo đảm giải thưởng thứ hai 5× vẫn được duy trì; bội số 10× áp dụng cho tất cả các giải thưởng không phải Jackpot, giống như các chương trình khuyến mãi trước đó. Sự thành công của Power Play đã dẫn đến sự xuất hiện của các bội số tương tự trong các trò chơi khác, đặc biệt là "Megaplier", có sẵn thông qua tất cả các thành viên Mega Millions trừ California. Các thay đổi Powerball năm 2012 đã dẫn đến tất cả tám cấp giải hạng thấp có giải thưởng Power Play "cố định". Vào ngày 19 tháng 1 năm 2014, PowerPlay đã được điều chỉnh; nó sử dụng 30 quả bóng với phân bố như sau: Vào ngày 4 tháng 10 năm 2015, PowerPlay đã thay đổi, sử dụng 42 hoặc 43† quả bóng như sau: † 10x có sẵn khi giải thưởng Jackpot dưới 150 triệu đô la. Double Play. Tùy chọn Double Play có sẵn ở 13 tiểu bang và Puerto Rico. Với thêm 1 đô la, người chơi có thể sử dụng lại các số Powerball của mình trong một lượt quay thứ hai với cấu trúc giải thưởng khác được tổ chức khoảng 30 phút sau lượt quay chính. Một vé Powerball với tùy chọn Double Play có giá 3 đô la; nếu cả hai tùy chọn Power Play và Double Play được chọn, tổng chi phí là 4 đô la. Giải thưởng và xác suất. Các giải thưởng tính đến ngày 7 tháng 10 năm 2015: Tổng xác suất trúng thưởng là 1 trên 24,87. Các giải thưởng/xác suất trước đây (từ ngày 19 tháng 1 năm 2014 đến ngày 3 tháng 10 năm 2015): Tổng xác suất trúng thưởng là 1 trên 31,85. Tất cả các giải thưởng không phải jackpot đều là các số tiền cố định (trừ ở California); chúng có thể được giảm và trả theo cách chia tỷ lệ cổ phần, với mỗi thành viên trả mức giá khác nhau cho cùng một mức giải thưởng, nếu khoản trách nhiệm vượt quá số tiền trong quỹ giải thưởng cho bất kỳ thành viên nào. Tích lũy jackpot và các tùy chọn thanh toán. Người chiến thắng jackpot có thể chọn nhận giải thưởng bằng tiền mặt (trong hai đợt; một từ thẩm quyền chiến thắng, sau đó số tiền kết hợp từ các thành viên khác) hoặc dưới dạng kỳ hạn thụ động trả trong 30 kỳ thanh toán hàng năm. Số tiền trước thuế của khoản thanh toán kỳ hạn đầu tiên tương đương khoảng 1,505% số tiền jackpot. Mỗi khoản thanh toán kỳ hạn cao hơn 5% so với năm trước để điều chỉnh cho lạm phát. Giải thưởng jackpot ước tính được quảng cáo đại diện cho tổng số tiền sẽ được trả cho người chiến thắng jackpot nếu họ chọn lựa chọn kỳ hạn. Ước tính này dựa trên số tiền tích lũy trong quỹ jackpot từ các kỳ quay trước, dự kiến doanh số bán cho kỳ quay tiếp theo và tỷ lệ lợi suất thị trường cho các chứng khoán sẽ được sử dụng để tài trợ cho kỳ hạn. Giải thưởng jackpot ước tính thường là 32,5% của doanh thu (không bao gồm "Power Play") từ mỗi lượt chơi cơ bản ($1), được gửi bởi các thành viên của trò chơi để tích lũy thành quỹ giải thưởng để tài trợ cho jackpot. Nếu jackpot không được trúng trong một lượt quay cụ thể, quỹ giải thưởng được chuyển sang lượt quay tiếp theo, tích lũy cho đến khi có người chiến thắng jackpot. Quỹ giải thưởng này là số tiền mặt được trả cho người chiến thắng jackpot nếu họ chọn tiền mặt. Nếu người chiến thắng chọn kỳ hạn, tỷ lệ lợi suất thị trường hiện tại được sử dụng để tính toán lịch trình thanh toán tăng dần và khoản thanh toán đầu tiên được trả. Số tiền còn lại trong quỹ giải thưởng được đầu tư để tạo ra thu nhập để tài trợ cho các kỳ thanh toán còn lại. Nếu có nhiều người chiến thắng jackpot trong một lượt quay, quỹ giải thưởng jackpot được chia đều cho tất cả các lượt chơi như vậy. MUSL và các thành viên của nó chịu mọi rủi ro đầu tư và có nghĩa vụ hợp đồng và chịu trách nhiệm về việc thanh toán định kỳ cho người chiến thắng kỳ hạn. Nếu một vé jackpot không được yêu cầu, số tiền trong quỹ giải thưởng được trả lại cho các thành viên theo tỷ lệ đóng góp của họ vào quỹ giải thưởng. Các thành viên có các quy định khác nhau quy định việc sử dụng số tiền không được yêu cầu. Khi jackpot Powerball được trúng, jackpot tiếp theo được đảm bảo là 20 triệu đô la (kỳ hạn). Nếu không có ai trúng jackpot, giá trị tăng thấp nhất là 10 triệu đô la. Số tiền mặt trong quỹ jackpot được đảm bảo là giá trị hiện tại của kỳ hạn. Nếu doanh thu từ việc bán vé giảm dưới sự mong đợi, các thành viên của trò chơi phải đóng góp thêm tiền vào quỹ jackpot để bù đắp khoảng còn thiếu; kịch bản có khả năng xảy ra nhất là khi jackpot được trúng liên tiếp. Do Đại dịch COVID-19 tại Hoa Kỳ và sự giảm doanh số bán vé cùng với sự giảm lãi suất trên các giải thưởng kỳ hạn, các quản lý Powerball đã giảm mức jackpot khởi điểm tối thiểu xuống còn 20 triệu đô la và mức tăng tối thiểu xuống còn 2 triệu đô la khi jackpot trước không được trúng. Yêu cầu nhận giải thưởng. Vé chiến thắng phải được yêu cầu tại địa phương mà nó được mua, bất kể địa điểm cư trú của người chiến thắng. Tuổi tối thiểu để chơi Powerball là 18 tuổi, trừ Nebraska (19 tuổi), Arizona, Iowa, Louisiana và Mississippi (21 tuổi). Nhìn chung, người chơi Powerball không cần phải chọn tiền mặt hay kỳ hạn trừ khi họ trúng jackpot (thường có 60 ngày để chọn). Những ngoại lệ bao gồm Florida và Missouri; "đồng hồ" 60 ngày bắt đầu từ lượt quay, vì vậy người chiến thắng jackpot muốn nhận tiền mặt cần phải lập kế hoạch ngay lập tức để yêu cầu giải thưởng của họ. New Jersey và Texas yêu cầu việc chọn tiền mặt/kỳ hạn phải được thực hiện khi chơi; ở New Jersey, vé kỳ hạn có thể chuyển đổi thành tiền mặt sau khi trúng, trong khi ở Texas, sự lựa chọn là ràng buộc. (Khi lựa chọn tiền mặt được giới thiệu vào năm 1997, tất cả người chơi Powerball phải lựa chọn khi chơi. Quy định này đã bị loại bỏ vào năm 1999.) Tất cả các giải thưởng Powerball phải được yêu cầu trong khoảng thời gian từ 90 ngày đến 1 năm, tùy thuộc vào nơi mua vé. Tiền thưởng Powerball ở California chỉ chịu thuế thu nhập liên bang. Ngược lại, tiền thưởng Powerball ở Puerto Rico không chịu thuế thu nhập liên bang, chỉ chịu thuế địa phương. Florida, South Dakota, Texas, Washington và Wyoming không có thuế thu nhập tiểu bang, và chỉ áp dụng thuế lợi tức và cổ tức tại New Hampshire và Tennessee. Ở tất cả các tiểu bang khác, tiền thưởng chịu cả thuế thu nhập liên bang và thuế thu nhập của tiểu bang đó, miễn là vé trúng thưởng được mua tại tiểu bang cư trú của người chiến thắng. Tiền thưởng từ vé mua ngoài tiểu bang cư trú có thể chịu thuế thu nhập ở "cả hai" tiểu bang (có thể có khả năng hưởng thuế dựa trên hai yếu tố này), tuy nhiên điều này phụ thuộc vào các tiểu bang liên quan. Giải thưởng phụ. Khác với phần tiền thưởng jackpot, các giải thưởng khác là trách nhiệm và trách nhiệm của từng công ty xổ số tham gia. Tất cả doanh thu từ việc bán vé Powerball không được sử dụng cho jackpot được giữ lại bởi mỗi thành viên; không có doanh thu này được chia sẻ với các công ty xổ số khác. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm thanh toán các giải thưởng phụ được bán tại địa phương. Vì các giải thưởng phụ được xác định theo mức cố định (trừ California), nếu trách nhiệm cho một mức giải thưởng cụ thể vượt quá số tiền trong nguồn tiền giải thưởng cho mức đó, số tiền giải thưởng có thể giảm và nguồn tiền giải thưởng được phân phối theo cách parimutuel và dẫn đến giải thưởng thấp hơn so với các mức cố định được hiển thị trong bảng giải thưởng. Do các nguồn tiền giải thưởng phụ được tính toán độc lập, nên có thể có sự khác biệt về giải thưởng cấp thấp giữa các thành viên tham gia. Các giải thưởng đáng chú ý. Bởi vì số tiền jackpot được trích dẫn là một kỳ hạn 30 khoản thanh toán hàng năm, giá trị tiền mặt so với kỳ hạn dao động. Tỷ lệ thực tế phụ thuộc vào lãi suất dự kiến và các yếu tố khác. MUSL bắt đầu bằng giá trị tiền mặt, xây dựng từ một phần trăm doanh thu bán hàng, sau đó tính toán số tiền jackpot được quảng cáo từ giá trị đó, dựa trên giá trị trung bình của ba đề nghị mua chứng khoán tốt nhất. Vào ngày 25 tháng 12 năm 2002, chủ tịch một công ty xây dựng tại Putnam County, Tây Virginia, đã trúng giải 314,9 triệu đô la (314,9 triệu đô la ngày nay), lúc đó đây là kỷ lục mới cho một vé duy nhất trong xổ số Mỹ. Người chiến thắng đã chọn lựa chọn tiền mặt trị giá 170 triệu đô la, nhận khoảng 83 triệu đô la sau khi khấu trừ thuế tại Tây Virginia và liên bang. Vào ngày 19 tháng 10 năm 2005, một gia đình ở Jacksonville, Oregon, đã trúng giải 340 triệu đô la (340 triệu đô la ngày nay). Những người chiến thắng đã chọn lựa chọn tiền trả thẳng trị giá 164,4 triệu đô la (trước khi khấu trừ), nhỏ hơn so với việc trả tiền thẳng cho các người chiến thắng trước đó vào năm 2002 do sự thay đổi gần đây trong cấu trúc kỳ hạn. Vào ngày 18 tháng 2 năm 2006, một vé duy nhất tại Nebraska đã trúng giải trị giá 365 triệu đô la (365 triệu đô la ngày nay). Giải thưởng được chia sẻ bởi tám người làm việc tại một nhà máy chế biến thịt. Nhóm đã chọn lựa chọn tiền trả thẳng khoảng 177,3 triệu đô la, trước khi khấu trừ thuế. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2007, một giải thưởng trị giá 314 triệu đô la ($314 triệu đô la ngày nay) đã được một công nhân hưu trí từ Ohio trúng. Vé được mua tại Richmond, Indiana, một cộng đồng đã từng bán được một vé trúng giải trị giá hơn 200 triệu đô la. Vào tháng 11 năm 2011, ba nhà quản lý tài chính tại Greenwich, Connecticut đã chia sẻ một giải trị giá 254,2 triệu đô la (254,2 triệu đô la ngày nay), là giải thưởng lớn nhất trên một vé mua tại Connecticut. Chọn lựa chọn tiền trả thẳng, ba người đàn ông chia nhau gần 104 triệu đô la sau khi khấu trừ thuế. Giải thưởng, vào thời điểm đó, là giải thưởng thứ 12 lớn nhất trong lịch sử Powerball. Vào ngày 18 tháng 5 năm 2013, giải thưởng một vé duy nhất lớn nhất thế giới cho đến thời điểm đó, trị giá khoảng 590,5 triệu đô la ($590,5 triệu đô la ngày nay), đã được trúng bởi một vé Powerball được bán tại Zephyrhills, Florida. Vào ngày 5 tháng 6, các quan chức Florida Lottery đã thông báo người chiến thắng đã mua vé "chọn nhanh" tại một siêu thị Publix. Người chiến thắng đã chọn lựa chọn tiền mặt khoảng 370,8 triệu đô la, trước khi khấu trừ thuế liên bang; Florida không có thuế thu nhập của bang. Vào ngày 13 tháng 1 năm 2016, giải thưởng vé duy nhất lớn nhất thế giới vào thời điểm đó, trị giá khoảng 1,586 tỷ đô la, đã được chia sẻ giữa ba vé Powerball tại Chino Hills, California, Melbourne Beach, Florida và Munford, Tennessee, mỗi vé trị giá 528,8 triệu đô la. Vì không có thuế thu nhập bang ở Florida hoặc Tennessee (và California không thuế tiền thưởng xổ số), tùy chọn tiền mặt sau khi khấu trừ thuế liên bang là 187,2 triệu đô la mỗi vé. Vào ngày 23 tháng 8 năm 2017, chủ sở hữu một vé Powerball được bán tại Chicopee, Massachusetts đã trúng hơn 750 triệu đô la, một trong những giải thưởng lớn nhất trong lịch sử xổ số. Một người mẹ có hai con ở Massachusetts đã may mắn trúng giải. Vào ngày 27 tháng 3 năm 2019, một vé duy nhất được mua tại Wisconsin là người chiến thắng duy nhất của giải thưởng Powerball trị giá 768,4 triệu đô la (477 triệu đô la tiền mặt), giải thưởng lớn thứ ba trong lịch sử xổ số Hoa Kỳ. Người chiến thắng của giải thưởng khổng lồ được xác định là một người đàn ông 24 tuổi từ Wisconsin. Vào ngày 8 tháng 11 năm 2022, một vé duy nhất được mua tại Altadena, California, là người chiến thắng duy nhất của giải thưởng Powerball trị giá 2,04 tỷ đô la, lớn nhất trong lịch sử xổ số Hoa Kỳ. Giải thưởng được tuyên bố vào ngày 14 tháng 2 năm 2023. Người chiến thắng được tiết lộ là Edwin Castro. Anh ta đã chọn nhận giải thưởng dưới hình thức một khoản thanh toán trọn gói trị giá 997,6 triệu đô la. Anh ta mua vé tại Joe's Service Center ở Altadena, nơi nhận được 1 triệu đô la thưởng từ nhà điều hành Powerball vì đã bán vé trúng giải. Khoản thưởng cookie may mắn. Buổi quay số Powerball vào ngày 30 tháng 3 năm 2005 đã tạo ra 110 người chiến thắng giải nhì. Tổng số tiền trao cho những người chiến thắng này là 19,4 triệu đô la, với 89 người nhận được 100.000 đô la mỗi người, trong khi 21 người chiến thắng khác nhận được 500.000 đô la mỗi người vì đã chọn Power Play. Ban đầu, các quan chức của MUSL nghi ngờ về gian lận hoặc lỗi báo cáo. Tuy nhiên, tất cả 110 người chiến thắng đã chơi các số từ những chiếc bánh cookie may mắn được sản xuất bởi Wonton Food Inc. tại Long Island City, New York. Nhà máy đã in các số "22, 28, 32, 33, 39, 40" trên hàng ngàn lời tiên tri. Số "40" trong lời tiên tri không khớp với số Powerball là 42. Không ai trong nhân viên của Wonton Food đã chơi những số đó. Vào thời điểm đó, thành viên gần nhất của trò chơi là Connecticut. Vì các chủ vé đã trúng giải nhờ vào sự trùng hợp chứ không phải hành vi gian lận, nên đã tiến hành trao tiền thưởng. Nếu bánh cookie may mắn cho số 42 là số Powerball, những người chiến thắng này sẽ chia sẻ giải thưởng 25 triệu đô la: mỗi người 227.272 đô la theo hình thức trả góp hoặc 122.727 đô la tiền mặt (trước khi trừ thuế). Câu tiên tri trên chiếc bánh cookie nói: "Tất cả những chuẩn bị mà bạn đã làm sẽ cuối cùng mang lại thành quả." Máy tính và máy đánh bạc. Năm 2006, WMS Gaming đã tung ra một loạt máy đánh bạc mang thương hiệu Powerball. Năm 2007, Oregon Lottery đã phát hành một tiện ích Windows Sidebar hiển thị các số trúng giải của Powerball theo thời gian thực. Tiện ích cũng cung cấp thông báo về giải thưởng lớn. New York Lottery đã giới thiệu một loại vé xổ số Powerball năm 2010. Năm số trúng giải và số Powerball được in trên đầu của vé, với 12 cơ hội để so khớp. So khớp với các số trúng giải hoặc Powerball đều có thể trúng. Giải thưởng hàng đầu là 1 triệu đô la (trả góp); khác với Powerball thực tế, không có lựa chọn tiền mặt cho giải thưởng hàng đầu. Xem thêm. Mega Millions Hiệp hội Xổ số Đa bang (MUSL)
7,904,280
19,805,340
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805340
Ngự trà thiện phòng
Ngự trà thiện phòng () là một bộ phận của Nội vụ phủ phụ trách nấu các bữa ăn cho triều đình nhà Thanh.
7,904,282
19,805,367
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805367
Trương Tòng Chính
Trương Tòng Chính (; 1156–1228), biểu tự Tử Hòa (), là một thầy thuốc và văn sĩ người Trung Quốc hoạt động trong thời nhà Kim. Ông hoạt động tại thủ phủ Đại Lương (大梁; ngày nay là Khai Phong, Hà Nam) và được biết với cách tiếp cận y học hung bạo và không chính thống, dựa trên niềm tin mọi bệnh tật đều do tà khí gây ra. Ông được coi là một trong "Tứ đại sư" của triều đại Kim–Nguyên. Quan điểm và thực hành. Quan điểm chung. Trương có một quan điểm gây tranh cãi, cho rằng tất cả bệnh tật là do tà khí gây ra. Viết trong "Nho môn sự thân" (), do bằng hữu của ông là chủ biên, Trương đề xuất ba phương pháp để loại bỏ tà khí trong cơ thể, đó là hạ pháp (do khí ở phần dưới cơ thể), hàn (đổ mồ hôi do khí "mầm bệnh" gần lớp thượng bì) và ẩu thổ (nôn mửa do tắc nghẽn phần trên cơ thể). Trương chấp thuận châm cứu và ngải cứu. Dù vậy, ông thận trọng khi dùng dược phẩm, trái ngược với "chiến thuật ăn kiêng". Mặc dù Trương chưa từng yết kiến thầy thuốc , nhưng ông đã bị ảnh hưởng bởi các tác phẩm của Lưu, đặc biệt về vấn đề chữa trị "rối loạn phong". Lối chữa trị khác biệt. Học giả y học thời nhà Minh đã so sánh cách tiếp cận khác biệt của Trương Tòng Chính, người tiên phong trong trường phái tư tưởng "Công hạ phái" (, nghĩa là "Phản công và thanh lọc" ) và , người ủng hộ phương thuốc "Ôn bổ phái" (), nghĩa là bài thuốc "Làm ấm và tẩm bổ"): "Phương pháp trị liệu của hai y sĩ này nghịch nhau nhưng lại công hiệu bằng nhau?" Theo Lý Trung Tử, cách tiếp cận y học của Trương hung bạo hơn bởi vì ông chữa trị cho những công nhân bần hàn có thể "chịu đựng sự thanh tẩy mạnh mẽ của ông ta". Ngược lại, Tiết Tắc chữa trị cho tầng lớp quý tộc có cơ thể tương đối yếu hơn vì thế cần "thuốc bổ" để tăng cường hệ miễn dịch. Bản thân Trương Tòng Chính cho rằng bệnh nhân từ các vùng nông thôn phải được chữa trị khác biệt: "Bởi vì biên giới phía nam nóng hơn, thích hợp dùng phương thuốc vị đắng và tính mát để chữa trị. Vùng phía bắc lạnh hơn, nên dùng phương thuốc có vị đắng và tính ấm để chữa trị." Ở một nơi khác, ông cho rằng những người từ "miền trung" phần lớn dễ bị rối loạn tỳ và bao tử vì thói quen ăn uống của họ. Sinh đẻ. Theo bệnh sử, Trương đã chữa trị cho một nữ bệnh nhân trong tình trạng nguy hiểm tính mạng sau khi ba bà mụ đã dùng lực quá mạnh với cô, vì vậy đã gây chết thai nhi. Ông được cho là đã tiến hành cấp cứu thai nhi đã chết bằng cách dùng một dụng cụ tạm thời bao gồm một cái móc từ một chiếc cân thép gắn vào một sợi dây. Một trường hợp khác, Trương chẩn đoán một phụ nữ đã lập thất, cô mơ thấy mình "giao hợp với ma quỷ và thần tiên" trong nhiều năm, cùng "tràn âm" trong cơ thể khiến cô không thể mang thai. Chứng điên loạn. Trương Tòng Chính được cho là thầy thuốc đầu tiên đưa ra lý thuyết chứng điên loạn là do lửa, nhiệt và dịch nhầy gây ra, và có thể chữa trị bằng thuốc gây nôn và thuốc nhuận tràng, ngoài phương pháp tâm lý trị liệu. Ví dụ, Trương lưu ý con người có thể mắc bệnh tâm thần sau khi "(ngã) khỏi ngựa" hoặc "(rơi) xuống giếng", vì "dịch nhầy tiết ra ở phần trên cơ thể" mà chỉ có thể loại bỏ bằng chữa trị nôn mửa. Trong một ghi chép cụ thể, Trương đã trói một người đàn ông "điên loạn" vào bánh xe quay; "cơn điên hoàn toàn dừng lại" sau khi người đàn ông nôn mửa và uống vài lít nước lạnh. Cuộc sống và di sản. Trương Tòng Chính sinh năm 1156, hoạt động tại thủ phủ Đại Lương (; ngày nay là Khai Phong, Hà Nam). Ông tự học tại gia từ khi còn nhỏ. Vì cách tiếp cận y học không chính thống, ông không tương tác nhiều với những người đồng môn. Trương qua đời năm 1228. Trong lịch sử y học cận đại ở Trung Quốc, Trương Tòng Chính được coi là một trong "Tứ đại gia" () thời Kim–Nguyên, cùng với , Lưu Hoàn Tố và . Tuy nhiên, trong triều đại nhà Minh và nhà Thanh, "Tứ đại gia" được coi là Lý Đông Viên, Lưu Hoàn Tố, Châu Chấn Hanh và Trương Trọng Cảnh (thay vì Trương Tòng Chính).
7,904,283
19,805,371
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805371
Lịch sử chiêm tinh học
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm cách nhìn thế giới, ngôn ngữ và nhiều yếu tố văn hóa xã hội. Trong số các dân tộc ở Tây Á-Âu, bằng chứng sớm nhất về Tử vi xuất hiện từ thế kỷ 3 trước Công nguyên, có nguồn gốc từ các hệ thống lịch sử được sử dụng để dự đoán sự thay đổi mùa và diễn giải chu kỳ thiên văn như những tín hiệu của giao tiếp thần thánh. Cho đến thế kỷ 17, Tử vi được coi là một truyền thống học thuật và đã giúp thúc đẩy sự phát triển của thiên văn học. Nó được chấp nhận phổ biến trong các vòng chính trị và văn hóa, và một số khái niệm của nó được sử dụng trong các nghiên cứu truyền thống khác như giả kim học, khí tượng học và y học. Đến cuối thế kỷ 17, các khái niệm khoa học mới nổi trong thiên văn học, như mặt trời chí tâm, đã làm suy yếu cơ sở lý thuyết của Tử vi, từ đó nó mất đi vị thế học thuật và được coi là một giả khoa học. Các nghiên cứu khoa học dựa trên thực nghiệm đã chỉ ra rằng các dự đoán dựa trên những hệ thống này không chính xác. Trong thế kỷ 20, Tử vi trở nên phổ biến hơn trong công chúng thông qua ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng thường xuyên, như bói toán trên báo. Tử vi, trong ý nghĩa rộng nhất, là sự tìm kiếm ý nghĩa con người trong bầu trời; nó cố gắng hiểu hành vi con người chung và cụ thể thông qua tác động của các hành tinh và các vật thể thiên văn khác. Có ý kiến cho rằng Tử vi bắt đầu như một nghiên cứu ngay từ khi con người cố gắng đo lường, ghi lại và dự đoán sự thay đổi mùa bằng việc tham khảo chu kỳ thiên văn. Bằng chứng sớm nhất về các thực hành như vậy xuất hiện dưới dạng những dấu vết trên xương và tường hang động, cho thấy chu kỳ trăng đã được ghi chú từ cách đây tới 25.000 năm trước; bước đầu ghi nhận tác động của Mặt trăng đối với triều dâng và sông, cũng như tạo ra một lịch cộng đồng. Với cuộc cách mạng nông nghiệp thời đại đồ đá mới, nhu cầu mới được đáp ứng thông qua việc tăng cường kiến thức về các chòm sao, xuất hiện và biến đổi theo mùa, cho phép việc mọc của những nhóm sao cụ thể dự báo đợt lũ hàng năm hoặc các hoạt động theo mùa. Đến thế kỷ 3 trước Công nguyên, các nền văn minh phổ biến đã phát triển nhận thức tinh vi về chu kỳ thiên văn, và được cho là đã cố ý điều chỉnh đền đài của họ để tạo sự thích hợp với việc mọc của các ngôi sao. Có các bằng chứng rải rác cho thấy những tham chiếu Tử vi cổ nhất là bản sao của các văn bản được thực hiện trong thời kỳ này, đặc biệt là ở Miến Điện (Sumer, Akkad, Assyria và Babylon). Hai bản, từ Bảng sao Kim của Ammisaduqa (tổng hợp tại Babylon khoảng năm 1700 TCN), được cho là đã được thực hiện trong thời kỳ trị vì của vua Sargon của Akkad (2334–2279 TCN). Một bản khác, miêu tả việc sử dụng Tử vi tùy chọn sẽ được ghi nhận cho triều đại của vị vua Sumer Gudea của Lagash (khoảng 2144–2124 TCN). Nó miêu tả cách các vị thần đã tiết lộ cho ông trong một giấc mơ các chòm sao sẽ có lợi nhất cho việc xây dựng một ngôi đền được lên kế hoạch. Tuy nhiên, có tranh cãi về việc liệu chúng có được ghi nhận thực sự vào thời điểm đó hay chỉ được gán cho các vị vua cổ xưa bởi hậu thế. Vì vậy, bằng chứng cổ nhất không bị tranh cãi về việc sử dụng Tử vi như một hệ thống kiến thức được tích hợp được ghi nhận trong các bản ghi xuất hiện từ triều đại đầu tiên của Miến Điện (1950–1651 TCN). Chiêm tinh Babylon. Chiêm tinh Babylon là hệ thống chiêm tinh được ghi chép sớm nhất, phát triển vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Có sự suy đoán rằng hình thức chiêm tinh nào đó đã xuất hiện trong thời kỳ Sumer thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, nhưng những tham chiếu cô lập về dấu hiệu thiên văn cổ đại trong giai đoạn này không được coi là bằng chứng đủ để chứng minh một lý thuyết chiêm tinh tích hợp. Do đó, lịch sử của dự báo thiên văn học học thuật thường được cho là bắt đầu từ các văn bản Babylon đầu tiên muộn (khoảng 1800 TCN), tiếp tục qua giai đoạn Babylon trung và Assyria trung (khoảng 1200 TCN). Đến thế kỷ thứ 16 TCN, việc sử dụng chiêm tinh dựa trên dấu hiệu trở nên phổ biến, được chứng minh bằng việc biên soạn một tác phẩm tham khảo toàn diện được gọi là "Enuma Anu Enlil". Nội dung của nó bao gồm 70 tấm bản viết bằng chữ câu-nê, bao gồm 7.000 dấu hiệu thiên văn. Các văn bản từ thời điểm này cũng đề cập đến một truyền thống miệng - nguồn gốc và nội dung của nó chỉ có thể đoán. Vào thời điểm này, chiêm tinh Babylon chỉ liên quan đến vấn đề hằng ngày, liên quan đến dự đoán thời tiết và các vấn đề chính trị, và trước thế kỷ thứ 7 TCN, hiểu biết của các nhà chiêm tinh về thiên văn học khá sơ khai. Các biểu tượng chiêm tinh có thể đại diện cho các công việc theo mùa, và được sử dụng như một cuốn sách lịch hàng năm của các hoạt động được liệt kê để nhắc nhở cộng đồng thực hiện những việc phù hợp với mùa hay thời tiết (như biểu tượng đại diện cho thời gian thu hoạch, thu thập sò, câu cá bằng lưới hoặc dây, gieo trồng cây trồng, thu thập hoặc quản lý nguồn nước, săn bắn và các công việc theo mùa quan trọng đảm bảo sự sống sót của trẻ em và động vật trẻ cho nhóm lớn hơn). Đến thế kỷ thứ 4, phương pháp toán học của họ đã tiến bộ đủ để tính toán vị trí các hành tinh trong tương lai một cách có độ chính xác hợp lý, và từ đó các bảng chiêm tinh chi tiết bắt đầu xuất hiện. Chiêm tinh Babylon phát triển trong bối cảnh tiên đoán. Một bộ sưu tập 32 tấm bản viết trên mô hình gan, được ngâm cứu từ khoảng năm 1875 TCN, là các văn bản chiêm tinh Babylon chi tiết cổ nhất được biết đến, và chúng cho thấy cùng một định dạng giải thích như được sử dụng trong phân tích điềm báo thiên văn. Những vết thâm và đánh dấu trên gan của động vật hiến tế được giải thích như là dấu hiệu biểu tượng đại diện cho thông điệp từ các vị thần tới vua. Người ta cũng tin rằng các vị thần cũng hiện thân trong hình ảnh thiên thể hành tinh hoặc sao mà họ liên kết. Dấu hiệu thiên văn xấu liên quan đến bất kỳ hành tinh cụ thể nào cũng được coi là biểu hiện của sự không hài lòng hoặc sự xáo lạc của vị thần mà hành tinh đó đại diện. Những biểu hiện như vậy được đối mặt với việc cố gắng làm hài lòng vị thần và tìm cách quản lý để thể hiện ý kiến của vị thần mà không gây thiệt hại đáng kể đến vua và quốc gia của ông. Một báo cáo thiên văn học cho vua Esarhaddon về một sự che mờ mặt trăng vào tháng 1 năm 673 TCN cho thấy cách sử dụng lễ nghi của các vị thay thế vua, hoặc các sự kiện thay thế, kết hợp một niềm tin mù quáng vào ma thuật và dấu hiệu với một quan điểm thuần cơ khí rằng sự kiện chiêm tinh phải có một liên hệ nào đó trong thế giới tự nhiên: Ulla Koch-Westenholz, trong cuốn sách "Chiêm tinh Mesopotamian" của bà năm 1995, cho rằng sự mâu thuẫn này giữa quan điểm thần thánh và cơ khí xác định khái niệm chiêm tinh của Babylon là một khái niệm mà mặc dù phụ thuộc nặng nề vào ma thuật, nhưng vẫn không có ý nghĩa của trừng phạt đặc thù với mục đích trả thù, và vì vậy "chia sẻ một số đặc điểm xác định của khoa học hiện đại: nó là khách quan và không có giá trị, nó hoạt động theo các quy tắc đã biết và dữ liệu của nó được coi là phổ biến và có thể tra cứu trong các bảng viết." Koch-Westenholz cũng xác định sự khác biệt quan trọng nhất giữa chiêm tinh Babylon cổ và các kỹ thuật chiêm tinh khác là điều đó ban đầu chỉ liên quan đến chiêm tinh hằng ngày, có mục tiêu địa lý và được áp dụng cụ thể cho các quốc gia, thành phố và quốc gia, và gần như toàn bộ quan tâm đến sự phát triển của quốc gia và vua như là người đứng đầu của quốc gia. Chiêm tinh hằng ngày do đó được biết đến là một trong những nhánh cổ nhất của chiêm tinh. Chỉ khi từ thế kỷ thứ 6 TCN, với sự xuất hiện dần dần của chiêm tinh bói toán, chiêm tinh mới phát triển các kỹ thuật và thực hành của chiêm tinh chủ động. Ai Cập Thời kỳ Hy Lạp hóa. Vào năm 525 TCN, Ai Cập bị người Ba Tư xâm chiếm, do đó có khả năng đã có một số ảnh hưởng từ Mesopotamia đến chiêm tinh Ai Cập. Trong việc bào chữa điều này, nhà sử học Tamsyn Barton đưa ra một ví dụ về những ảnh hưởng Mesopotamia dường như có trên cung Hoàng đạo Ai Cập, trong đó có hai chòm sao tương tự - Thiên Bình và Bọ Cạp, như được chứng minh trong Zodiac Dendera (trong phiên bản Hy Lạp, Thiên Bình được gọi là Móng Vuốt của Bọ Cạp). Sau khi được Alexander Đại đế chiếm đóng vào năm 332 TCN, Ai Cập trở thành một phần của quyền lực và sự ảnh hưởng Hy Lạp. Thành phố Alexandria được Alexander thành lập sau cuộc chinh phục và trong thế kỷ thứ 3 và thế kỷ thứ 2 TCN, các học giả Ptolemaic của Alexandria đã là những nhà văn phong phú. Chính trong Alexandria Ptolemaic, Chiêm tinh Babylon đã được kết hợp với truyền thống chiêm tinh Ai Cập về chiêm tinh Decanic để tạo ra Chiêm tinh bói toán. Điều này bao gồm cung Hoàng đạo Babylon với hệ thống cửu trùng của các chòm sao và sự quan trọng của những sự che mờ. Bên cạnh đó, nó kết hợp khái niệm Ai Cập chia cung Hoàng đạo thành ba mươi sáu decan, mỗi decan mười độ, với sự tập trung vào decan mọc, hệ thống thần thánh Hy Lạp, quyền trị của chòm sao và bốn nguyên tố. Các decan là hệ thống đo thời gian theo các chòm sao. Chúng được dẫn dắt bởi chòm sao Sothis hoặc Sirius. Sự mọc của các decan trong đêm được sử dụng để chia đêm thành 'giờ'. Sự mọc của một chòm sao ngay trước lúc mặt trời mọc (gọi là sự mọc heliacal) được coi là giờ cuối cùng của đêm. Trong suốt năm, mỗi chòm sao mọc ngay trước lúc mặt trời mọc trong mười ngày. Khi chúng trở thành một phần của chiêm tinh thời kỳ Hy Lạp, mỗi decan được liên kết với mười độ của cung Hoàng đạo. Các văn bản từ thế kỷ thứ 2 TCN liệt kê những dự đoán liên quan đến vị trí của các hành tinh trong các chòm sao vào thời điểm mọc của một số decan cụ thể, đặc biệt là Sothis. Cung Hoàng đạo cổ nhất được tìm thấy ở Ai Cập được đặt vào thế kỷ thứ nhất TCN, Zodiac Dendera. Đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của chiêm tinh bói toán là nhà chiêm tinh và nhà thiên văn Hy Lạp-La Mã Ptolemy, người sống ở Alexandria trong thời Ai Cập La Mã. Tác phẩm của Ptolemy, "Tetrabiblos", đã đặt nền tảng cho truyền thống chiêm tinh phương Tây, và được coi là "sở hữu gần như thẩm quyền của Kinh Thánh đối với các nhà văn chiêm tinh trong hàng ngàn năm". Đó là một trong những văn bản chiêm tinh đầu tiên được phổ biến ở Châu Âu thời Trung cổ sau khi được dịch từ tiếng Ả Rập sang tiếng Latinh bởi Plato of Tivoli (Tiburtinus) ở Tây Ban Nha, năm 1138. Theo Firmicus Maternus (thế kỷ thứ 4), hệ thống chiêm tinh bói toán đã được truyền sớm cho một vị vua Ai Cập tên là Nechepso và linh mục Petosiris. Các văn bản Hermetic cũng được biên soạn trong giai đoạn này và Clement of Alexandria, người viết trong thời kỳ Ai Cập La Mã, cho thấy mức độ mà các nhà chiêm tinh được kỳ vọng phải có kiến thức về các văn bản trong mô tả của ông về các nghi lễ thần thánh Ai Cập: Điều này được thể hiện chủ yếu thông qua nghi lễ thần thánh của họ. Vì đầu tiên là Người ca sĩ, mang theo một trong các biểu tượng của âm nhạc. Vì họ nói rằng anh ta phải học hai cuốn sách của Hermes, một trong đó chứa các bài ca của các vị thần, thứ hai là quy định về cuộc sống của vua. Và sau Người ca sĩ, người Astrologer tiến lên, cầm một cái đồng hồ cát trong tay và một cành cọ, biểu tượng của chiêm tinh. Anh ta phải có các cuốn sách chiêm tinh của Hermes, có bốn cuốn, luôn luôn trong miệng. Hy Lạp và La Mã. Cuộc chinh phục Châu Á bởi Alexander Đại đế đã đưa người Hy Lạp tiếp xúc với văn hóa và ý tưởng vũ trụ của Syria, Babylon, Ba Tư và Trung Á. Tiếng Hy Lạp thay thế chữ viết cuneiform để trở thành ngôn ngữ quốc tế trong giao tiếp trí tuệ và trong quá trình này, kiến thức về chiêm tinh đã được truyền từ chữ viết cuneiform sang tiếng Hy Lạp. Vào khoảng năm 280 TCN, Berossus, một linh mục của Bel từ Babylon, chuyển đến hòn đảo Hy Lạp Kos để dạy chiêm tinh và văn hóa Babylon cho người Hy Lạp. Với điều này, như nhà sử học Nicholas Campion gọi là "năng lượng đổi mới" trong chiêm tinh di chuyển về phương Tây vào thế giới Hy Lạp và Ai Cập. Theo Campion, chiêm tinh từ Thế giới Đông được đặc trưng bởi tính phức tạp, với các hình thức chiêm tinh khác nhau nổi lên. Vào thế kỷ thứ nhất TCN, đã có hai dạng chiêm tinh tồn tại, một dạng yêu cầu đọc bản đồ chiêm tinh để xác định thông tin chính xác về quá khứ, hiện tại và tương lai; dạng khác là chiêm tinh thần thông (đúng nghĩa là 'công việc của thần'), nhấn mạnh việc thăng tiến của linh hồn đến các ngôi sao. Mặc dù chúng không loại trừ lẫn nhau, hình thức đầu tiên tìm kiếm thông tin về cuộc sống, trong khi hình thức thứ hai quan tâm đến sự chuyển đổi cá nhân, trong đó chiêm tinh đóng vai trò như một hình thức giao tiếp với Thần linh. Như với nhiều thứ khác, ảnh hưởng của người Hy Lạp đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá lý thuyết chiêm tinh đến La Mã cổ đại. Tuy nhiên, các tài liệu sớm nhất mô tả sự xuất hiện của chiêm tinh ở La Mã tiết lộ sự ảnh hưởng ban đầu của nó đối với tầng lớp thấp hơn trong xã hội, và thể hiện sự quan ngại về việc lạm dụng ý tưởng của 'những người nhìn sao' Babylon. Trong số người Hy Lạp và người La Mã, Babylon (còn được gọi là Chaldea) trở nên quá liên kết với chiêm tinh đến mức 'trí tuệ Chaldean' trở thành một thuật ngữ thông thường để chỉ việc tiên đoán sử dụng hành tinh và sao. Tham chiếu chính xác đầu tiên đến chiêm tinh xuất hiện trong công việc của diễn giả Cato, người vào năm 160 TCN soạn một bài luận cảnh báo quản lý nông trại không nên tham khảo với người Chaldean. Nhà thơ Juvenal người La Mã thế kỷ thứ hai, trong cuộc tấn công châm biếm về thói quen của phụ nữ La Mã, cũng phàn nàn về sự ảnh hưởng tràn lan của người Chaldean, mặc dù họ có địa vị xã hội thấp hơn, ông nói "Người ta tin tưởng nhiều hơn người Chaldean; họ sẽ tin rằng mọi lời được phán của nhà chiêm tinh đến từ nguồn suối Hammon's, ... ngày nay, không một nhà chiêm tinh nào có uy tín nếu anh ta chưa từng bị giam tại một trại xa xôi nào, với những sự rên rỉ của xiềng xích trên cả hai cánh tay". Một trong những nhà chiêm tinh đầu tiên mang chiêm tinh Hermetic đến La Mã là Thrasyllus, người trong thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên đã làm nhà chiêm tinh cho Hoàng đế Tiberius. Tiberius là hoàng đế đầu tiên được báo cáo đã có một nhà chiêm tinh tại triều đình, mặc dù người tiền nhiệm Augustus cũng đã sử dụng chiêm tinh để giúp xác định quyền Đế quốc của mình. Vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, nhà chiêm tinh Claudius Ptolemy đã quá chú trọng vào việc làm chính xác bản đồ thế giới đầu tiên (bản đồ trước đó chủ yếu là tương đối hoặc giả tưởng) để có thể phác thảo mối quan hệ giữa nơi sinh của người và các thiên thể trên trời. Trong quá trình làm điều này, ông đã đặt ra thuật ngữ "địa lý". Mặc dù có vẻ như một số vị hoàng đế đã sử dụng chiêm tinh, cũng có một lệnh cấm chiêm tinh một phần nhất định. Vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, Publius Rufus Anteius bị buộc tội vi phạm điều cấm của người chiêm tinh bị trục xuất, và yêu cầu xem bản đồ chiêm tinh của chính ông và của Hoàng đế Nero. Vì tội này, Nero buộc Anteius tự sát. Lúc này, chiêm tinh có thể dẫn đến cáo buộc về ma thuật và phản quốc. Cicero's "De divinatione" (44 BCE), which rejects astrology and other allegedly divinatory techniques, is a fruitful historical source for the conception of scientificity in Roman classical Antiquity. The Pyrrhonist philosopher Sextus Empiricus compiled the ancient arguments against astrology in his book "Against the Astrologers." Thế giới Hồi giáo. Astrology được các học giả Hồi giáo tiếp nhận một cách nhiệt tình sau khi Alexandria bị người Ả Rập chiếm đóng vào thế kỷ 7, và việc thành lập đế chế Abbasid vào thế kỷ 8. Caliph Abbasid thứ hai, Al Mansur (754–775), thành lập thành phố Baghdad như một trung tâm học thuật và trong thiết kế của nó có một trung tâm phiên dịch thư viện được gọi là "Bayt al-Hikma" 'Ngôi nhà của Tri thức', được tiếp tục phát triển bởi các người kế nhiệm của ông và đã tạo động lực lớn cho việc dịch các văn bản chiêm tinh Hellenistic sang tiếng Ả Rập. Các nhà dịch sớm bao gồm Mashallah, người đã giúp chọn thời gian cho việc thành lập Baghdad, và Sahl ibn Bishr (còn được gọi là "Zael"), tác phẩm của ông có tác động trực tiếp đối với các nhà chiêm tinh châu Âu sau này như Guido Bonatti vào thế kỷ 13 và William Lilly vào thế kỷ 17. Tri thức về các văn bản tiếng Ả Rập bắt đầu được nhập khẩu vào châu Âu trong thế kỷ 12 thông qua các bản dịch tiếng Latinh. Trong số những nhà chiêm tinh quan trọng của người Ả Rập, một trong những người có ảnh hưởng nhất là Albumasur, tác phẩm của ông "Introductorium in Astronomiam" sau này trở thành một tác phẩm phổ biến ở châu Âu thời trung cổ. Một người khác là nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh và nhà địa lý người Ba Tư Al Khwarizmi. Người Ả Rập đã tăng cường tri thức về thiên văn học, và nhiều tên sao phổ biến ngày nay, chẳng hạn như Aldebaran, Altair, Betelgeuse, Rigel và Vega, vẫn mang dấu ấn của ngôn ngữ của họ. Họ cũng phát triển danh sách các lot Hellenistic đến mức chúng trở nên nổi tiếng như là Arabic parts, và vì lý do đó, thường sai lầm cho rằng nhà chiêm tinh Ả Rập đã phát minh việc sử dụng chúng, trong khi rõ ràng chúng đã là một yếu tố quan trọng của chiêm tinh Hellenistic astrology. Trong quá trình phát triển của khoa học Hồi giáo, một số phương pháp chiêm tinh đã bị bác bỏ trên cơ sở tôn giáo bởi các nhà thiên văn như Al-Farabi (Alpharabius), Ibn al-Haytham (Alhazen) và Avicenna. Những chỉ trích của họ cho rằng các phương pháp của các nhà chiêm tinh là suy đoán chứ không phải là thực nghiệm, và xung đột với quan điểm tôn giáo chính thống của các học giả Hồi giáo khi đề xuất rằng ý thức Chúa có thể được biết chính xác và dự đoán trước. Những bác bỏ này chủ yếu liên quan đến các nhánh "tư pháp" (như chiêm tinh theo giờ), chứ không phải là các nhánh "tự nhiên" hơn như chiêm tinh y học và chiêm tinh khí tượng, được coi là một phần của các khoa học tự nhiên của thời đại đó. Ví dụ, bài viết "Refutation against astrology" của Avicenna "Resāla fī ebṭāl aḥkām al-nojūm" phản bác việc thực hành chiêm tinh trong khi ủng hộ nguyên tắc các hành tinh làm đại diện cho nguyên tắc nguyên nhân thần thánh mà biểu hiện quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa đối với sự sáng tạo. Avicenna cho rằng chuyển động của các hành tinh ảnh hưởng đến cuộc sống trên Trái đất một cách xác định, nhưng bác bỏ khả năng xác định tác động chính xác của các ngôi sao. Về bản chất, Avicenna không phủ nhận dogma cốt yếu của chiêm tinh, nhưng phủ nhận khả năng của chúng ta để hiểu nó đến mức có thể đưa ra dự đoán chính xác và định mệnh từ đó. Châu Âu thời Trung cổ và Phục hưng. Trong khi chiêm tinh ở phương Đông thịnh vượng sau khi thế giới La Mã sụp đổ, với sự kết hợp của ảnh hưởng Ấn Độ, Ba Tư và Hồi giáo đồng tồn tại và trải qua sự đánh giá tri thức thông qua việc đầu tư tích cực vào các dự án dịch thuật, chiêm tinh phương Tây trong cùng giai đoạn trở nên "phân mảnh và thiếu tinh vi... một phần do mất mát của thiên văn học khoa học Hy Lạp và một phần do lời kết án của Nhà thờ." Việc dịch các tác phẩm tiếng Ả Rập sang tiếng Latin đã bắt đầu lan truyền đến Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 10, và vào thế kỷ 12, việc truyền bá các tác phẩm chiêm tinh từ Ả Rập vào châu Âu "đạt được động lực lớn". Vào thế kỷ 13, chiêm tinh trở thành một phần của thực hành y học hàng ngày ở châu Âu. Bác sĩ kết hợp y học Galen (kế thừa từ nhà vật lý học Hy Lạp Galen - năm 129-216) với nghiên cứu về các ngôi sao. Vào cuối thế kỷ 16, các bác sĩ trên khắp châu Âu được yêu cầu theo luật pháp tính toán vị trí của Mặt Trăng trước khi thực hiện các thủ tục y tế phức tạp, chẳng hạn như phẫu thuật hoặc khảo huyết. Các tác phẩm có ảnh hưởng của thế kỷ 13 bao gồm công trình của nhà tu Anh Johannes de Sacrobosco (khoảng 1195–1256) và nhà chiêm tinh người Ý Guido Bonatti từ Forlì (Italia). Bonatti phục vụ cho chính quyền của Florence, Siena và Forlì và là cố vấn cho Frederick II, Hoàng đế La Mã Thần thánh. Cuốn sách giáo trình chiêm tinh của ông "Liber Astronomiae" ("Sách Thiên văn học"), được viết vào khoảng năm 1277, được coi là "công trình chiêm tinh quan trọng nhất được sản xuất bằng tiếng Latin trong thế kỷ 13". Dante Alighieri đã vĩnh cửu hóa Bonatti trong "Divine Comedy" (đầu thế kỷ 14) bằng cách đặt ông trong vòng Ái Nhĩ Thất Địa của Địa Ngục, nơi những người sẽ tiên đoán tương lai bị buộc phải xoay đầu (nhìn về phía sau thay vì phía trước). Ở châu Âu thời Trung cổ, một giáo dục đại học được chia thành bảy lĩnh vực riêng biệt, mỗi lĩnh vực đại diện cho một hành tinh cụ thể và được gọi là bảy nghệ thuật tự do. Dante cho rằng những nghệ thuật này thuộc về các hành tinh. Vì các nghệ thuật được coi là hoạt động theo thứ tự tăng dần, các hành tinh cũng được sắp xếp theo thứ tự giảm dần của tốc độ chuyển động: văn chương được gán cho Mặt Trăng, cơ quan chuyển động nhanh nhất, luận thuyết được gán cho Thủy Thần, hùng biện được gán cho Hoàng đạo, âm nhạc được gán cho Mặt Trời, toán học được gán cho Sao Hỏa, hình học được gán cho Sao Mộc và chiêm tinh/thiên văn học được gán cho cơ thể chuyển động chậm nhất, Sao Thổ. Các nhà văn thời Trung cổ đã sử dụng biểu tượng chiêm tinh trong các chủ đề văn học của họ. Ví dụ, "Divine Comedy" của Dante xây dựng các tham chiếu đa dạng đến các liên kết với các hành tinh trong kiến trúc mô tả của ông về Địa Ngục, Luyện Ngục và Thiên Đàng (như bảy tầng Luyện Ngục của núi giải thoát từ bảy tội lỗi chính mà tương ứng với bảy hành tinh cổ điển của chiêm tinh). Tương tự, các chủ đề chiêm tinh và hành tinh được theo đuổi trong các tác phẩm của Geoffrey Chaucer. Những đoạn văn chiêm tinh của Chaucer xuất hiện khá thường xuyên và kiến thức cơ bản về chiêm tinh thường được cho là hiển nhiên qua tác phẩm của ông. Ông biết đủ về chiêm tinh và thiên văn học của thời đại mình để viết một "Treatise on the Astrolabe" cho con trai mình. Ông nhắm chú ý đến mùa xuân đầu của "Canterbury Tales" trong các câu mở đầu của mở đầu bằng việc nhận xét rằng Mặt Trời "đã đi một nửa vòng trong Bạch Dương". Ông khiến Wife of Bath đề cập đến "tính kiên cường mạnh mẽ" là một đặc điểm của Sao Hỏa, và liên kết Thủy Thần với "những người biết viết". Trong thời kỳ hiện đại sớm, các tham chiếu chiêm tinh cũng được tìm thấy trong các tác phẩm của William Shakespeare và John Milton. Một trong những nhà chiêm tinh tiếng Anh sớm nhất để lại chi tiết về thực hành của mình là Richard Trewythian (sinh năm 1393). Sổ ghi chép của ông cho thấy ông có một loạt khách hàng, từ mọi tầng lớp xã hội, và cho thấy việc tham gia vào chiêm tinh ở Anh vào thế kỷ 15 không chỉ giới hạn trong các vòng trí thức, thần học hay chính trị. Trong thời Phục hưng, các nhà chiêm tinh tại triều đình sẽ bổ sung việc sử dụng tử vi với các quan sát và khám phá thiên văn. Nhiều cá nhân ngày nay được công nhận đã lật đổ trật tự chiêm tinh cũ, chẳng hạn như Tycho Brahe, Galileo Galilei và Johannes Kepler, đều là những nhà chiêm tinh thực hành. Vào cuối thời Phục hưng, sự tự tin đặt vào chiêm tinh giảm bớt, với sự sụp đổ của Vật lý Aristotelê và sự từ chối sự phân biệt giữa các miền thái cầu và địa cầu, mà từ lâu đã là nền tảng của lý thuyết chiêm tinh. Keith Thomas viết rằng mặc dù thuyết Mặt Trời giữa, một phần của chiêm tinh học, tương thích với lý thuyết chiêm tinh, các tiến bộ thiên văn thế kỷ 16 và 17 đã làm cho "thế giới không còn có thể được tưởng tượng là một hệ thống hữu hạn hoàn chỉnh; nó giờ đây là một cơ chế có kích thước vô hạn, mà trong đó sự phụ thuộc phân cấp giữa địa cầu và thiên đường đã biến mất không thể chối cãi". Ban đầu, trong số các nhà thiên văn gia thời đại, "hầu như không ai cố gắng bác bỏ một cách nghiêm túc dựa trên những nguyên tắc mới" và thực tế các nhà thiên văn gia "đều không muốn từ bỏ sự hài lòng tình cảm được cung cấp bởi một vũ trụ hợp nhất và liên quan lồng vào nhau". Đến thế kỷ 18, đầu tư tri thức trước đây đã duy trì vị thế của chiêm tinh học đã bị bỏ bê lớn phần. Nhà sử học khoa học Ann Geneva viết: Ấn Độ. Việc sử dụng chiêm tinh ở Ấn Độ được ghi nhận lần đầu trong thời kỳ Vedas. Chiêm tinh, hay "jyotiṣa", được liệt kê là một Vedanga, hay một nhánh của Vedas trong tôn giáo Veda. Công trình duy nhất thuộc loại này còn tồn tại là "Vedanga Jyotisha", chứa các quy tắc để theo dõi chuyển động của Mặt Trời và Mặt Trăng trong ngữ cảnh của chu kỳ năm năm. Ngày tháng của công trình này không chắc chắn, vì ngôn ngữ và cấu trúc viết muộn của nó, phù hợp với thế kỷ cuối trước Công nguyên, mặc dù trước thời Triều đại Maurya, có mâu thuẫn với một số bằng chứng nội tại cho một ngày sớm hơn nhiều trong thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Thiên văn học và chiêm tinh Hindu đã phát triển cùng nhau. Tác phẩm đầu tiên về Jyotisha, "Bhrigu Samhita", được biên soạn bởi nhà sages Bhrigu trong thời kỳ Veda. Nhà sages Bhirgu cũng được gọi là 'Cha đẻ của Chiêm tinh Hindu', và là một trong những nhà sages Veda tôn kính Saptarishi hoặc bảy nhà sages Veda. Nhà sages Saptarishi cũng được tượng trưng bởi bảy ngôi sao chính trong chòm sao Đại Hùng. Lịch sử được ghi chép về Jyotisha trong nghĩa tiếp theo của chiêm tinh học huyền bí hiện đại liên quan đến sự tương tác giữa văn hóa Ấn Độ và Hellenistic thông qua các vương quốc Greco-Bactrian và Indo-Greek Kingdoms. Các tác phẩm cổ nhất còn tồn tại, như "Yavanajataka" hoặc "Brihat-Samhita", được đặt vào thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên. Tác phẩm chiêm tinh cổ nhất bằng Sanskrit là "Yavanajataka" ("Câu nói của người Hy Lạp"), một bài thơ của Sphujidhvaja vào năm 269/270 sau Công nguyên dịch từ một bài thơ Hy Lạp đã mất của Yavanesvara vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên dưới sự bảo trợ của vua Indo-Scythian Rudradaman I của Western Satraps. Viết trên trang lá cây, Samhita (Tổng hợp) được cho là chứa năm triệu lá số bao gồm tất cả những người đã sống trong quá khứ hoặc sẽ sống trong tương lai. Các tác giả được đặt tên viết các tác phẩm về thiên văn từ thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, thời điểm được coi là giai đoạn kinh điển của thiên văn Ấn Độ bắt đầu. Ngoài các lý thuyết của Aryabhata trong "Aryabhatiya" và "Arya-siddhānta" đã mất, còn có "Pancha-Siddhāntika" của Varahamihira. Trung Quốc. Hệ thống chiêm tinh Trung Quốc dựa trên thiên văn học và lịch Trung Quốc, và sự phát triển quan trọng của nó liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của thiên văn học bản địa Trung Quốc, đã phát triển trong thời kỳ Nhà Hán (thế kỷ thứ 2 TCN đến thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên). Chiêm tinh Trung Quốc có mối liên hệ gần gũi với triết học Trung Quốc (lý thuyết ba điều hòa: trời, đất và nước) và sử dụng các nguyên tắc của âm dương và dương âm, cũng như các khái niệm không có trong chiêm tinh phương Tây, như các giảng dạy "wuxing", 10 cành thiên văn, 12 Cành địa và lịch âm dương (lịch mặt trăng và lịch mặt trời) và tính toán thời gian sau năm, tháng, ngày và "shichen" (時辰). Truyền thống, chiêm tinh được coi trọng ở Trung Quốc, và Confucius được cho là đã đối xử với chiêm tinh với sự tôn trọng, nói rằng: "Trời gửi xuống những biểu tượng tốt hay xấu của nó và người khôn ngoan hành động phù hợp".(xem bói tử vi) Chu kỳ 60 năm kết hợp năm yếu tố với mười hai con giáp đã được ghi chép ở Trung Quốc ít nhất từ thời kỳ thương (Shing hoặc Yin) (khoảng 1766 TCN - khoảng 1050 TCN). Những tấm xương ước đã được tìm thấy từ thời kỳ đó với ngày theo chu kỳ 60 năm được khắc trên chúng, cùng với tên của nhà tiên tri và chủ đề được tiên tri. Nhà chiêm tinh Tsou Yen sống vào khoảng năm 300 TCN và viết: "Khi một triều đại mới sắp nổi lên, trời thể hiện những dấu hiệu đầu mỹ cho nhân dân". Trung Mỹ. Các lịch của các vùng Trung Mỹ trước thuộc đại Mỹ La Tinh được dựa trên một hệ thống đã được sử dụng phổ biến trên toàn khu vực, ngày trở lại ít nhất từ thế kỷ thứ 6 TCN. Những lịch sớm nhất được sử dụng bởi các dân tộc như Zapotecs và Olmec, và sau đó bởi các dân tộc như Maya, Văn minh Mixtec và Aztec. Mặc dù lịch Trung Mỹ không phát sinh từ người Maya, nhưng các sự mở rộng và cải tiến sau này của họ đã là phần phức tạp nhất. Cùng với lịch của Aztec, các lịch Maya được ghi chép và hiểu rõ nhất. Lịch Maya đặc biệt sử dụng hai hệ thống chính, một hệ thống ghi chú năm mặt trời 360 ngày, quản lý việc trồng trọt và các vấn đề gia đình khác; hệ thống khác gọi là Tzolkin 260 ngày, quản lý việc sử dụng trong nghi lễ. Mỗi hệ thống này được liên kết với một hệ thống chiêm tinh phức tạp để bao gồm mọi khía cạnh của cuộc sống. Vào ngày thứ năm sau khi con trai sinh ra, các thầy tiên tri Maya sẽ xem xét bói toán của mình để xem nghề nghiệp của anh ta sẽ là gì: binh lính, linh mục, viên chức công chính hoặc nạn nhân hiến tế. Một chu kỳ Venus kéo dài 584 ngày cũng được duy trì, theo dõi sự xuất hiện và sự kết hợp của Venus. Venus được coi là một ảnh hưởng không lành và xấu, và các vị vua Maya thường lên kế hoạch khai chiến khi Venus mọc. Có bằng chứng cho thấy Maya cũng theo dõi sự di chuyển của Thần Hải Vương, Sao Hỏa và Sao Mộc, và sở hữu một chòm sao nào đó. Tên tiếng Maya cho chòm sao Xà Phu cũng là 'bọ cạp', trong khi tên chòm sao Song Sinh là 'heo rừng'. Có một số bằng chứng cho thấy các chòm sao khác được đặt theo tên của các loài thú khác nhau. Một trong những thiên văn viện chiêm tinh Maya nổi tiếng vẫn còn nguyên vẹn là thiên văn viện Caracol ở thành phố Maya cổ Chichen Itza ở Mexico ngày nay. Lịch Aztec chia sẻ cùng cấu trúc cơ bản với lịch Maya, với hai chu kỳ chính là 360 ngày và 260 ngày. Lịch 260 ngày được gọi là Tonalpohualli và được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiên đoán. Giống như lịch Maya, hai chu kỳ này cùng tạo thành một 'thế kỷ' 52 năm, đôi khi được gọi là Calendar Round. Liên kết ngoài. Chiêm tinh Phương Tây cổ điển - Mục nhập từ Internet Encyclopedia of Philosophy trình bày quá trình phát triển của chiêm tinh Phương Tây và tương tác của nó với các trường phái triết học. Danh mục tài liệu về Thiên văn học và Chiêm tinh Mesopotamia
7,904,284
19,805,375
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805375
Chiêm tinh Trung Quốc
Chiêm tinh Trung Quốc dựa trên thiên văn học Trung Quốc và lịch Trung Quốc. Chiêm tinh Trung Quốc phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ nhà Hán (thế kỷ 2 TCN đến thế kỷ 2 CN). Chiêm tinh Trung Quốc có mối liên hệ chặt chẽ với triết học Trung Quốc (lý thuyết ba hoà: thiên, địa và nhân), và sử dụng nguyên tắc âm dương cũng như các khái niệm không có trong chiêm tinh phương Tây, chẳng hạn như "ngũ hành" (năm hành), mười Cánh Thiên, mười hai Chi Nhánh, lịch âm dương (lịch mặt trăng và lịch mặt trời), và tính toán thời gian sau năm, tháng, ngày và "shichen" (, giờ đôi). Lịch sử và nền tảng. Chiêm tinh Trung Quốc được phát triển trong thời kỳ nhà Zhou (1046–256 TCN) và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ nhà Hán (thế kỷ 2 TCN đến thế kỷ 2 CN). Trong thời kỳ Hán, các yếu tố quen thuộc của văn hóa Trung Quốc truyền thống - triết lý âm dương, lý thuyết về năm yếu tố, các khái niệm về thiên địa và đạo đức Nho giáo - đã được kết hợp lại để hình thành các nguyên lý triết học của y học Trung Quốc và bói toán, chiêm tinh và giả kim thuật. Năm hành hành tinh cổ điển được liên kết với "ngũ hành": Theo chiêm tinh Trung Quốc, định mệnh của một người có thể được xác định bằng vị trí của các hành tinh chính tại thời điểm sinh của người đó cùng với vị trí của mặt trời, mặt trăng, sao chổi, thời gian sinh của người đó và cung hoàng đạo. Hệ thống mười hai năm của các con giáp được xây dựng dựa trên quan sát quỹ đạo của Sao Mộc (Sao Năm; ). Theo quỹ đạo của Sao Mộc quanh mặt trời, các nhà thiên văn Trung Quốc chia hình cung trên bầu trời thành 12 phần và làm tròn thành 12 năm (so với 11,86 năm). Sao Mộc liên kết với chòm sao "Sheti" ( - Boötes) và đôi khi được gọi là Sheti. Hệ thống tính toán vận mệnh và định mệnh của một người dựa trên ngày sinh, mùa sinh và giờ sinh, được biết đến là "tử vi đầu số" (), hay Chiêm tinh Sao Tử Vi, vẫn được sử dụng thường xuyên trong chiêm tinh Trung Quốc hiện đại để xem trước vận may của một người. 28 chòm sao Trung Quốc, "Tú" (), khá khác biệt so với các chòm sao phương Tây. Ví dụ, Đại Xử (Ursa Major) được biết đến như "Đẩu" (); dải đai của chòm sao Thiên Lang được biết đến như "Tham" (), hoặc ba vị thần nửa thần nửa người của hạnh phúc, tài lộc và sự trường thọ. Bảy chòm sao phía bắc được gọi là "Tuyền Ngưu" (). Tuyền Ngưu cũng được biết đến như linh hồn của bầu trời phía bắc hoặc linh hồn của nước trong niềm tin Đạo giáo phái Đạo. Ngoài việc đọc vận mệnh dựa trên các thiên thể, các ngôi sao trên bầu trời còn là nền tảng của nhiều cổ tích. Ví dụ, "Tam Giác Mùa Hè" là ba ngôi sao gồm chàng chăn bò (Deneb Kaitos), tiên nữ thợ dệt (Vega), và tiên tai bái (Altair). Hai người yêu bị chia cách bởi sông bạc (Ngân Hà). Mỗi năm vào ngày thứ bảy của tháng thứ bảy trong lịch Trung Quốc, các con chim hình thành một cây cầu qua Ngân Hà. Chàng chăn bò đưa hai ngôi sao con trai của họ (hai ngôi sao ở hai bên của Altair) qua cây cầu để hàn gắn với mẹ tiên. Tiên tai bái là người hướng dẫn của hai người yêu bất tử này. Lịch âm dương. Chu kỳ 60 năm bao gồm hai chu kỳ riêng biệt tương tác với nhau. Chu kỳ đầu tiên là chu kỳ của mười Cánh Thiên, gồm ngũ hành (theo thứ tự Kim, Hoả, Thổ, Thủy, và Mộc) trong hình thái âm dương của chúng. Chu kỳ thứ hai là chu kỳ của mười hai con giáp ( "shēngxiào") hoặc Chi Nhánh. Chúng theo thứ tự như sau: Chuột, Bò, Hổ, Thỏ, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, và Lợn. Ở Việt Nam, Thỏ được thay thế bằng mèo. Sự kết hợp này tạo ra chu kỳ 60 năm vì đó là số năm ít nhất (bội số chung nhỏ nhất) để chuyển từ "Chuột Mộc Dương" đến chu kỳ tiếp theo, luôn bắt đầu bằng "Chuột Mộc Dương" và kết thúc với "Lợn Thủy Âm". Vì chu kỳ con giáp 12 chia hết cho hai, mỗi con giáp chỉ có thể xuất hiện dưới hình thái âm hoặc dương: Rồng luôn là dương, Rắn luôn là âm, và cứ như vậy. Chu kỳ hiện tại bắt đầu từ năm 1984 (như được hiển thị trong "Bảng lịch 60 năm" bên dưới). Khi cố gắng xuyên qua lịch âm dương, một quy tắc dễ dàng để làm theo là các năm kết thúc bằng số chẵn là dương, còn các năm kết thúc bằng số lẻ là âm. Chu kỳ tiến triển như sau: Tuy nhiên, vì con giáp Trung Quốc (theo lịch âm dương lịch Trung Quốc) tuân theo lịch lịch Trung Quốc, ngày chuyển đổi là Tết Nguyên đán, chứ không phải ngày 1 tháng 1 như trong lịch lịch Gregory. Do đó, một người sinh vào tháng 1 hoặc đầu tháng 2 có thể có con giáp của năm trước. Ví dụ, nếu một người sinh vào tháng 1 năm 1970, yếu tố của anh ta hoặc cô ta vẫn là Thổ Âm, chứ không phải Kim Dương. Tương tự, mặc dù năm 1990 được gọi là năm của Mã, nhưng bất kỳ ai sinh từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 26 tháng 1 năm 1990, thực sự đã sinh vào năm Con Rắn (con giáp của năm trước), vì năm Mã 1990 không bắt đầu cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1990. Vì lý do này, nhiều công cụ tính con giáp trực tuyến (và thảm bàn ở các nhà hàng Trung Quốc) có thể cho người ta con giáp sai nếu anh ta hoặc cô ta sinh vào tháng 1 hoặc đầu tháng 2. Sự khai mạc của một con giáp mới cũng được kỷ niệm vào dịp Tết Nguyên đán cùng với nhiều phong tục khác. Bảng lịch 60 năm. Bảng dưới đây cho thấy chu kỳ 60 năm khớp với lịch phương Tây cho các năm từ 1924 đến 2043 (xem bài về chu kỳ 60 năm cho các năm từ 1924 đến 1983). Điều này chỉ áp dụng cho lịch Trung Quốc Âm lịch. Chu kỳ chu kỳ 60 năm bắt đầu vào ngày lichun. Mỗi năm âm lịch Trung Quốc được liên kết với một sự kết hợp của mười Cánh Thiên () và mười hai Chi Nhánh () tạo thành 60 Cánh-Chi () trong chu kỳ 60 năm.
7,904,286
19,805,451
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805451
Paul Delecroix
Paul Delecroix (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Châteauroux tại Championnat National. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại Amiens, Delecroix bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Amiens và có 6 lần ra sân ở giải quốc gia. Anh ta thi đấu cho Niort vào mùa giải 2011-12 và luôn ra sân mọi trận đấu. Hết mùa giải, câu lạc bộ thăng hạng lên Ligue 2 với vị trí á quân ở Championnat National. Sau đó, anh ta gia nhập Niort vào ngày 27 tháng 6 năm 2012, ký hợp đồng 2 năm với đội bóng. Tháng 5 năm 2016, Delecroix gia nhập FC Lorient bằng bản hợp đồng 3 năm. Tháng 7 năm 2018, Delecroix gia nhập FC Metz sau khi hết hạn hợp đồng với Lorient. Tháng 1 năm 2021, Delecroix ký hợp đồng với Annecy. Đời tư. Bố của Paul, Jean-Louis là một cầu thủ bóng đá. Danh hiệu. Metz Metz B
7,904,293
19,805,536
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805536
Aye Aye Aung
Aye Aye Aung (Sinh ngày 19 tháng 2 năm 1995) là một vận động viên điền kinh đến từ Myanmar. Cô đã thi đấu trong nội dung chạy 800 mét nữ tại Giải vô địch Thế giới 2015 tại Bắc Kinh, Trung Quốc.
7,904,320
19,805,544
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805544
Lima Azimi
Lima Azimi sinh năm 1981 hoặc 1982, là một vận động viên điền kinh người Afghanistan. Azimi đã thu hút sự chú ý khi đại diện đất nước của mình tham dự Giải vô địch Thế giới 2003 tại Paris. Cô là người phụ nữ đầu tiên đại diện cho Afghanistan tại một sự kiện thể thao quốc tế sau khi Taliban bị lật đổ. Cô đã thi đấu trong cuộc đua chạy 100 mét, với trang phục "áo thun màu xám và một đôi quần thể thao màu xanh dương". Theo báo cáo, cô không biết cách sử dụng khởi động, chưa từng có cơ hội được tập luyện với chúng. Azimi đã kết thúc cuộc đua cuối cùng trong nhánh của mình với thời gian 18,37 giây - một kỷ lục quốc gia, vì cô là người Afghanistan đầu tiên tham gia vào cuộc đua như vậy. Vào thời điểm Giải vô địch Thế giới 2003, Azimi là một sinh viên ngành Tiếng Anh và Văn học tại Đại học Kabul. Cô quyết định không thi đấu để giành một suất tham dự Thế vận hội Athens 2004.
7,904,322
19,805,570
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805570
Lethrinus mitchelli
Lethrinus mitchelli là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2021. Từ nguyên. Từ định danh được đặt theo tên của David Mitchell, một nhà bảo tồn nhiều kinh nghiệm, người đã hết lòng vì công việc ở vịnh Milne. Phân bố và môi trường sống. "L. mitchelli" có phân bố giới hạn ở Tây Thái Bình Dương, và mới chỉ được biết đến ở vịnh Milne (Papua New Guinea). "L. mitchelli" được thu thập ở độ sâu khoảng 20–25 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất ở "L. mitchelli" là 20 cm (chiều dài tiêu chuẩn). Thân màu nâu, bụng hơi trắng. Hai bên lườn có một dải sọc màu nâu, thuôn nhọn về phía đuôi; một phần trước bị cắt ngang bởi một dải trắng chéo. Như nhiều loài "Lethrinus" khác, "L. mitchelli" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm, với một loạt các vạch nâu đen ở thân trên và dưới, cũng như những vệt sẫm, thường thấy khi chúng bơi hoặc đứng im gần sát đáy biển, có lẽ là ngụy trang để tránh sự nguy hiểm. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 4 dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 47.
7,904,330
19,805,726
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805726
Marie Louise của Orléans
Marie Louise của Orléans (tiếng Pháp: "Marie-Louise d'Orléans"; tiếng Tây Ban Nha: "María Luisa de Orleans"; 26 tháng 3 năm 1662 – 12 tháng 2 năm 1689) là một "petite-fille de France" ("Cháu gái nước Pháp" hay "Vương tôn nữ nước Pháp") và là con gái của Công tước Philippe I của Orléans và Vương nữ Henrietta của Anh. Marie Louise là Vương hậu Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Quốc vương Carlos II của Tây Ban Nha ngày 19 tháng 11 năm 1679 cho đến khi bà qua đời vào năm 1689, được cho là do viêm ruột thừa. Tiểu sử. Thời thơ ấu. Marie Louise của Orléans sinh ra tại Palais-Royal ở Paris, con đầu lòng của Vương tử Philippe của Pháp, Công tước xứ Orléans và Vương nữ Henrietta của Anh. Với tư cách là một "Vương tôn nữ Pháp," Marie Louise được hưởng kính xưng "Royal Highness," mặc dù, theo thông lệ tại triều đình cung điện Versailles, Marie thường được gọi là "Mademoiselle d'Orléans" (Đức nữ xứ Orléans). Quyến rũ, xinh đẹp và duyên dáng, Marie Louise chính là người con cưng của cha và đã có một tuổi thơ hạnh phúc. Marie Louise dành phần lớn thời gian sống ở Cung điện Vương thất và Lâu đài Saint-Cloud cách Paris vài km về phía tây. Marie Louise cũng dành nhiều thời gian cho cả bà nội Ana của Tây Ban Nha, người rất yêu quý cháu gái và để lại phần lớn tài sản cho Marie Louise khi Ana qua đời năm 1666; và bà ngoại Henriette Marie của Pháp sống ở Colombes. Henrietta, mẹ của Marie Louise qua đời năm 1670. Năm sau đó, cha của Marie tái hôn với Elisabeth Charlotte của Pfalz. Marie Louise có mối quan hệ tốt đẹp với mẹ kế và thường trao đổi thư từ một cách tình cảm với Elisabeth Charlotte. Vương hậu Tây Ban Nha. Tháng 7 năm 1679, Marie Louise được cha là Philippe, và bác là Quốc vương Louis XIV của Pháp thông báo hôn ước của Marie với Carlos II của Tây Ban Nha. Đau khổ vì mối hôn sự này, Marie dành phần lớn thời gian để khóc vì đã đem lòng yêu người anh họ Louis, bấy giờ là Trữ quân nước Pháp. Hôn lễ ủy nhiệm diễn ra tại Cung điện Fontainebleau vào ngày 30 tháng 8 năm 1679, đứng thay cho chú rể là em họ xa là Louis-Armand I xứ Conti. Cho đến giữa tháng 9, có một loạt các sự kiện trang trọng được tổ chức để vinh danh Tân vương hậu của Tây Ban Nha. Trước khi đến Tây Ban Nha, Marie Louise đã đến tu viện Val-de-Grâce, nơi lưu giữ trái tim của mẹ Marie là Henrietta của Anh. Sau này, Marie Louise không bao giờ trở lại Pháp. Ngày 19 tháng 11 năm 1679, Marie Louise chính thức kết hôn với Carlos II của Tây Ban Nha ở Quintanapalla, gần Burgos, Tây Ban Nha, chính thức bắt đầu chuỗi ngày cô độc tại triều đình Tây Ban Nha của Marie. Carlos II hết mực yêu hương Marie Louise cho đến tận cuối đời nhưng nhưng những lễ nghi của Triều đình Tây Ban Nha như cấm chạm vào Vương hậu và những nỗ lực sinh con không thành công đã khiến Marie Louise sầu khổ. Người bạn đồng hành thường xuyên nhất của Vương hậu chính là đại sứ Pháp Marie Gigault de Bellefonds, Hầu tước xứ Villars. Chung sống với nhau mười năm không có con, Marie Louise đã tâm sự với đại sứ Pháp rằng Trong những năm cuối đời, Marie Louise trở nên thừa cân. Vương hậu được cho là thích đồ uống có vị ngọt từ chanh và quế, vốn cần 32 pound đường để pha chế. Sau khi cưỡi ngựa vào ngày 11 tháng 2 năm 1689, Marie cảm thấy đau dữ dội ở bụng khiến Vương hậu phải nằm nghỉ suốt buổi tối. Sau khi các bác sĩ phát hiện ra rằng tình trạng của ngài hậu đã trở nên nguy kịch, các cha giải tội đã được gọi đến để cứu phần hồn của Marie. Trong lúc hấp hối trên giường bệnh, Marie Louise đã nói với chồng những lời sau:Marie Louise qua đời vào đêm hôm sau. Gia phả.
7,904,367
19,805,754
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805754
Aybüke Pusat
Aybüke Pusat (sinh ngày 25 tháng 2, 1995) là một nữ diễn viên, người mẫu người Thổ Nhĩ Kỳ. Sự nghiệp diễn xuất. Phim truyền hình. Năm 2014, Aybüke Pusat ra mắt lần đầu tiên với một vai diễn nhỏ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng "Medcezir". Sau đó, cô tiếp tục đóng thêm một số vai phụ trong các loạt phim như: "Beş Kardeş" (2015) và "O Hayat Benim" (2015–2016). Năm 2016, cô được mời đóng vai chính trong loạt phim hài "Familya" , trong đó cô đóng vai Su Beyoğlu, con gái duy nhất của gia đình Beyoğlu, người cùng với các anh chị em của mình nổ lực hàn gắn mọi thứ trong gia đình sau cái chết của mẹ. Cô trở nên nổi tiếng vào năm 2017 nhờ vào vai nữ chính - bác sĩ Bahar Kutlu với tính cách cứng rắn, kiên cường trong hai mùa phim ' (Lời Thề) - một trong những bộ phim hành động nổi tiếng và được quốc tế đón nhận nồng nhiệt nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đóng cặp cùng Tolga Sarıtaş. Năm 2018"', cô tiếp tục đóng vai chính trong "," được chuyển thể từ loạt phim truyền hình nổi tiếng của Hoa Kỳ là Falcon Crest. Tuy nhiên, Şahin Tepesi chỉ kéo dài một thời gian ngắn do tỷ suất người xem thấp. Năm 2019, cô đóng vai chính cùng với Furkan Andıç trong bộ phim hài lãng mạn ' (Đâu Đâu Cũng Là Em), ở đó cô đóng vai Selin Sever, một kiến ​​trúc sư nội thất sôi nổi và thông minh, người bị buộc phải sống chung một nhà với nhân vật Demir Erendil của Furkan Andıç, đồng thời cũng chính là sếp mới của cô. Her Yerde Sen đã nhận được sự công nhận và đánh giá cao của quốc tế sau khi giành được Giải thưởng Ống kính Vàng từ Hiệp hội Nhà báo về lối kể chuyện, đạo diễn và kỹ xảo điện ảnh xuất sắc. Năm 2020, cả Pusat và Andıç đều giành được Giải thưởng Con bướm vàng cho Cặp đôi truyền hình xuất sắc nhất. Sau đó, Her Yerde Sen là tác phẩm duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ được nêu tên trong The Guardian 's danh sách 52 Phim hài lãng mạn cho Ngày lễ tình nhân năm 2021.
7,904,372
19,805,920
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19805920
Polsat Sport News
Polsat Sport News là kênh truyền hình Ba Lan đầu tiên có nội dung về các tin tức liên quan đến thể thao. Kênh được lên sóng vào lúc 7:00, ngày 30 tháng 5 năm 2011. Lịch sử. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2010, chương trình xuất hiện dưới dạng kênh thử nghiệm nội bộ trên kênh 146 của Cyfrowy Polsat. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2011, đài bắt đầu thử nghiệm truyền hình kỹ thuật số mặt đất trong bộ ghép kênh thứ hai. Ngày 30 tháng 5 năm 2011, kênh bắt đầu phát sóng lúc 7 giờ sáng, nhưng không có sẵn cho người dùng nền tảng vệ tinh kỹ thuật số. Ngày 11 tháng 8 năm 2011, trạm đã được cung cấp cho người dùng Cyfrowy Polsat. Ngày 4 tháng 11 năm 2011, kênh chính thức được thêm vào n và "Telewizji na Kartę". Vào ngày 1 tháng 11 năm 2012, Polsat Sport News đã tung ra quảng cáo. Kênh phát sóng từ 7:00 và kết thúc lúc 1:15. Ngày 2 tháng 2 năm 2017, Polsat Sport News được thay thế bởi Super Polsat trong kênh kỹ thuật số mặt đất thứ hai. Polsat Sport News bắt đầu phát sóng HD trên cơ sở nhượng bộ vệ tinh. Kênh sẽ có sẵn trên các nền tảng vệ tinh cũng như trên các mạng cáp và IPTV, và lịch trình của đài sẽ là phần tiếp theo của ưu đãi chương trình đã phát sóng trước đó trên cơ sở của Polsat Sport News.
7,904,407
19,806,269
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19806269
Ukraina hữu ngạn
Ukraina hữu ngạn (, "Pravoberezhna Ukrayina"; , "Pravoberezhnaya Ukraina") là tên gọi lịch sử và lãnh thổ của một phần Ukraine nằm ở bờ hữu (tây) của sông Dnepr (Dnipro), tương ứng với các tỉnh Vinnytsia, Zhytomyr, Kirovohrad, cũng như phần phía tây của các tỉnh Kyiv và Cherkasy. Nó chia tách với Ukraina tả ngạn trong thời Ruin (1659-1686). Ukraina hữu ngạn giáp với các khu vực lịch sử Volhynia và Podolia ở phía tây, Moldavia ở phía tây nam, Yedisan và Zaporizhzhia ở phía nam, Ukraina tả ngạn ở phía đông và Polesia ở phía bắc. Các thành phố chính của vùng bao gồm Cherkasy, Kropyvnytskyi, Bila Tserkva, Zhytomyr và Oleksandriia. Lịch sử. Lịch sử của Ukraina hữu và tả ngạn gắn liền với Khởi nghĩa Khmelnytsky năm 1648–57. Lãnh thổ này là một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva dưới thời Nhà Vasa, cho đến khi Chiến tranh Nga-Ba Lan xảy ra do Hiệp ước Pereyaslav của Khmelnytsky năm 1654, với liên minh Muscovy. Sau cuộc xung đột kéo dài 13 năm, Sa hoàng Nga chiến thắng và hợp nhất Ukraina tả ngạn cùng với thành phố Kyiv vào năm 1667 sau Thỏa thuận đình chiến Andrusovo. Trong khi đó, Ukraina hữu ngạn vẫn thuộc Thịnh vượng chung cho đến khi Ba Lan bị phân chia vào cuối thế kỷ 18. Là một phần của miền Tiểu Ba Lan, khu vực được chia thành hai tỉnh: Kiev và Bracław. Năm 1669, hetman Petro Doroshenko chấp thuận để Ukraina hữu ngạn trở thành một phần của Đế quốc Ottoman. Phần cực nam Podolia thuộc Ukraina hữu ngạn bị Ottoman xâm chiếm vào năm 1672. Sau chiến thắng năm 1683 của các cường quốc Kitô giáo trong Trận chiến Vien, đến năm 1699 Hiệp ước Karlowitz trả lại những vùng đất đó cho Thịnh vượng chung. Trong thế kỷ 18, hai cuộc nổi dậy của người Cossack diễn ra. Năm 1793, Ukraina hữu ngạn bị Đế quốc Nga sáp nhập trong Phân chia Ba Lan lần thứ hai, trở thành một phần của guberniya ('tỉnh') Tiểu Nga. Vào thế kỷ 19, dân số ở Ukraina hữu ngạn chủ yếu là người Ukraina, nhưng phần lớn đất đai thuộc sở hữu của giới quý tộc Ba Lan hoặc quý tộc Ukraina bị Ba Lan hóa. Nhiều thị trấn và thành phố thuộc về "Hàng rào định cư" và có một lượng lớn người Do Thái sinh sống, trong khi giới quý tộc nói tiếng Ba Lan chủ yếu theo Công giáo La Mã. Hầu hết nông dân trở nên tin theo Công giáo Hy Lạp chỉ mới trong thế kỷ 18, và sau Phân chia Ba Lan, phần lớn họ chuyển sang Chính thống giáo nhiều năm trước khi bãi bỏ Unia vào năm 1839. Ukraina hữu ngạn sau đó được chia thành bốn tỉnh (guberniya), mỗi tỉnh với chính quyền riêng của mình: Kiev, Volhynia, Kherson và Podolia.
7,904,409
19,806,293
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19806293
Trần Văn Độ (Thái Bình)
Trần Văn Độ (sinh năm 1955) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Cuộc đời. Trần Văn Độ sinh năm 1955 ở xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ông nhập ngũ tháng 12 năm 1972, công tác ở C51 Tỉnh đội Thái Bình, được điều về Quân khu 3. Năm 1975, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1976, ông học Trường Sĩ quan Chính trị. Năm 1977, học Cử nhân ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, ngành Xây dựng Đảng. Năm 1981, ông tốt nghiệp, thụ phong quân hàm Trung úy, công tác ở trường Sĩ quan Lục quân đến năm 1995. Năm 1984, ông tham gia chiến đấu ở mặt trận biên giới phía bắc. Năm 1995, ông học Nghiên cứu sinh ở Học viện Chính trị. Năm 2003, là Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10 Quân đoàn 3. Năm 2004, ông công tác ở Học viện Lục quân. Năm 2008, làm Phó Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu 5. Năm 2009, được bổ nhiệm làm Phó Chính ủy Học viện Lục quân. Ông nghỉ hưu năm 2016, hưởng lương Trung tướng.
7,904,416
19,806,564
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19806564
Sân bay quốc tế Funafuti
Sân bay quốc tế Funafuti là một sân bay ở Funafuti, ở thủ đô của đảo quốc Tuvalu. Đây là sân bay quốc tế duy nhất ở Tuvalu. Fiji Airways có các chuyến bay giữa Suva và Funafuti. Sân bay ở độ cao 3 m trên mực nước biển trung bình. Nó có một đường băng dài 1524m. Việc không có đèn chiếu sáng đường băng, thiết bị điều hướng hàng không và vô tuyến VHF tối thiểu có nghĩa là các hoạt động bị hạn chế vào ban ngày. Lịch sử. Sân bay Funafuti được xây dựng bởi tiểu đoàn Seabee thuộc Tiểu đoàn Xây dựng Hải quân số 2 của Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1943 trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sân bay quân sự bao gồm một đường băng, tháp điều khiển và các cơ sở, với một đài vô tuyến tại Tepuka, được kết nối bằng cáp với sân bay. Các tòa nhà trụ sở chính của căn cứ là nơi ở của Teagai Apelu ngày nay, và một boongke vẫn còn đó cho đến ngày nay.
7,904,461
19,806,825
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19806825
Đoàn binh Tây Tiến
Đoàn binh Tây Tiến, tên đầy đủ là Đoàn binh Tây Tiến (Đoàn Võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào - Việt) là cuốn sách hồi ký của nhà thơ Quang Dũng. Cuốn sách đã đoạt giải thưởng sách quốc gia năm 2020. Hoàn cảnh sáng tác. Năm 1947, Quang Dũng được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khoá học, ông làm Đại đội trưởng ở tiểu đoàn 212, Trung đoàn 52 Tây Tiến. Ông tham gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai, mở đường qua đất Tây Bắc. Trong thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào - Việt. Vào năm 1948 ông đã sáng tác bài thơ Tây Tiến. Đến năm 1952, khi đang công tác ở Thành cổ Sơn Tây, nhà thơ đã hoàn thành tập hồi ký về giai đoạn tham gia Tây Tiến của mình. Cuốn sách chỉ có 124 trang, ông đã có ý định xuất bản trong năm đó nên đã viết "Mấy lời nói trước cùng độc giả". Nhưng vì nhiều lý do mà cuốn sách đã không được in. Đến tận năm 2019, nghĩa là 67 năm kể từ khi nhà thơ Quang Dũng hoàn thành cuốn sách thì gia đình ông mới phối hợp với NXB Kim Đồng để phát hành cuốn sách với tên gọi là Đoàn binh Tây Tiến. Cuốn sách đã đạt được Giải A giải thưởng sách quốc gia năm 2020. Do nhà thơ Quang Dũng đã mất hồi năm 1988 nên chị Bùi Phương Thảo là con gái của ông, thay mặt gia đình lên nhận giải thưởng.
7,904,520
19,806,981
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19806981
Jesse Williams (cầu thủ bóng đá, sinh 2001)
Jesse Williams (sinh ngày 18 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá người Trinidad và Tobago hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Pittsburgh Riverhounds SC tại USL Championship và Đội tuyển bóng đá quốc gia Trinidad và Tobago.
7,904,544
19,807,027
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807027
Tỉnh của Belarus
Ở cấp hành chính cao nhất, Belarus được chia thành sáu tỉnh và một thành phố thủ đô. Sáu trong số đó là oblast (còn được gọi là voblast), trong khi thành phố Minsk có vị thế đặc biệt là thủ đô của Belarus. Minsk cũng đóng vai trò là trung tâm hành chính của tỉnh Minsk. Ở cấp độ thứ hai, các tỉnh được chia thành các huyện (raion). Bố cục và phạm vi của các tỉnh được thiết lập vào năm 1960 khi Belarus (khi đó là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia) là một nước cộng hòa cấu thành của Liên bang Xô viết. Lịch sử. Vào đầu thế kỷ 20, ranh giới của các vùng đất Belarus trong Đế quốc Nga vẫn đang được xác định. Năm 1900, nó nằm trong toàn bộ các tỉnh Minsk và Mogilev, hầu hết tỉnh Grodno, một phần của tỉnh Vitebsk và một phần của tỉnh Vilna. Chiến tranh thế giới thứ nhất, nền độc lập của Ba Lan, cũng như Chiến tranh Ba Lan-Xô viết 1920-1921 đã ảnh hưởng đến ranh giới. Năm 1921, Belarus có tất cả những gì ngày nay là tỉnh Minsk ngoại trừ rìa phía tây, phần phía tây của tỉnh Gomel, một phần phía tây của tỉnh Mogilev và một phần nhỏ của tỉnh Vitebsk. Năm 1926, phần phía đông của tỉnh Gomel được thêm vào. Trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia, các đơn vị hành chính mới được gọi là oblast hoặc voblast (cùng nguồn gốc với từ oblast trong tiếng Nga với nguyên âm v-) được giới thiệu vào năm 1938. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Belarus đã giành được lãnh thổ ở phía tây, với các tỉnh Baranavichy, Belastok (Białystok), Brest, Pinsk và Vileyka. Năm 1944, Belastok bị loại bỏ và các tỉnh mới Babruysk, Grodno và Polotsk được thành lập. Đồng thời, tỉnh Vileika được đổi tên thành tỉnh Molodechno. Vào những thời điểm khác nhau giữa năm 1938 và 1960, tồn tại các tỉnh sau:
7,904,554
19,807,291
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807291
Họ Bàn mai
Họ Bàn mai, tên khoa học Pinnidae, là một họ động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở đại dương. Mô tả. Vỏ của các loài trong họ này có hình tam giác dài và rất dễ vỡ, khi còn sống phần đầu nhọn được cố định trong trầm tích. Vỏ có một lớp xà cừ bên trong mỏng nhưng rất óng ánh ở phần vỏ gần đầu nhọn. Nhiều loài trong họ này có giá trị thực phẩm cao và được khai thác đánh bắt lớn.
7,904,600
19,807,362
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807362
Du lịch ẩm thực
Du lịch ẩm thực (tiếng Anh: "Culinary tourism" hay "Food tourism") là hoạt động khám phá ẩm thực với mục đích du lịch. Đây được coi là một phần quan trọng của trải nghiệm du lịch (như câu nói "Đi đâu, ăn gì"). Ăn uống bên ngoài là sở thích phổ biến đối với khách du lịch và đối với khách du lịch thì đồ ăn được cho là có tầm quan trọng ngang với khí hậu, chỗ ở và phong cảnh. Du lịch ẩm thực trở nên nổi bật vào năm 2001 sau khi vị Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Ẩm thực Thế giới là Erik Wolf đã viết một bài báo về chủ đề này. Du lịch ẩm thực là hình thức du lịch hướng tới sự trải nghiệm các món ngon và đặc sản gắn liền với truyền thống, bản sắc văn hóa của các địa phương. Theo một báo cáo của American Express thì du lịch ẩm thực là xu hướng đang phát triển với 81% khách du lịch mong muốn được thưởng thức đồ ăn địa phương và có tới 37% du khách tìm kiếm và lên kế hoạch toàn bộ hành trình để trải nghiệm tối đa các nhà hàng địa phương nổi tiếng. Với hình thức này, du khách sẽ có được những cảm nhận rõ nét nhất về cuộc sống của người dân bản địa cũng như nét ẩm thực đặc trưng của từng vùng miền. Đại cương. Ẩm thực hay du lịch ẩm thực là việc theo đuổi những trải nghiệm ăn uống độc đáo và đáng nhớ, cả khi ở gần và ở xa. Du lịch ẩm thực khác với tham quan nông trại ("Agritourism") ở chỗ du lịch ẩm thực được coi là một cấu phần của du lịch văn hóa (ẩm thực là một biểu hiện của văn hóa) trong khi tham quan nông trại được coi là một cấu phần của du lịch nông thôn nhưng du lịch ẩm thực và tham quan nông trại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, là nguyên liệu của các món ăn được cung ứng từ nông sản. Ẩm thực và du lịch ẩm thực không chỉ giới hạn ở những món ăn ngon. Du lịch ẩm thực có thể được coi là một tiểu thể loại của du lịch trải nghiệm. Du lịch trải nghiệm là một hình thức du lịch trong đó mọi người tập trung vào việc trải nghiệm tại một đất nước, thành phố hoặc địa điểm cụ thể bằng cách tương tác tích cực và có ý nghĩa với lịch sử, con người, văn hóa, ẩm thực và môi trường của nơi đó. Trong khi nhiều thành phố, khu vực hoặc quốc gia được biết đến với nền ẩm thực độc đáo và phong phú, du lịch ẩm thực không bị giới hạn bởi văn hóa ẩm thực. Mỗi khách du lịch ăn khoảng ba lần một ngày từ đó làm cho cung ứng thực phẩm trở thành một trong những động lực kinh tế cơ bản của du lịch. Các quốc gia như Ireland, Peru và Canada đang đầu tư đáng kể vào phát triển du lịch ẩm thực và nhận thấy kết quả là chi tiêu của du khách và thời gian lưu trú qua đêm tăng lên nhờ quảng bá du lịch ẩm thực và phát triển sản phẩm. Du lịch ẩm thực bao gồm các hoạt động như tham gia các lớp học nấu ăn, hoạt động ăn uống, săn những quán ngon; tham dự lễ hội ẩm thực hay tham gia trải nghiệm ẩm thực đặc sản của địa phương. Hiệp hội Du lịch Ẩm thực Thế giới ("WFTA") ước tính rằng chi phí ăn uống chiếm từ 15% đến 35% tổng chi tiêu du lịch, tùy thuộc vào khả năng chi trả của điểm đến WFTA chỉ ra các lợi ích du lịch ẩm thực có thể có như bao gồm nhiều du khách hơn, nhiều doanh thu hơn, được nhiều phương tiện truyền thông chú ý hơn, tăng doanh thu thuế và niềm vinh hạnh của cộng đồng lớn hơn.
7,904,616
19,807,384
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807384
NHK Educational TV
, (viết tắt: NHK E) là kênh truyền hình giáo dục quốc gia do đài NHK sở hữu. Kênh truyền hình thường đối tượng khán giả chủ yếu là trẻ em, nội dung các chương trình mang tính chất giáo dục, phim tài liệu, văn hóa, khoa học và phim hoạt hình.
7,904,622
19,807,451
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807451
Valmir Veliu
Valmir Veliu (sinh ngày 4 tháng 6 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Kosovo hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ İstanbulspor tại Süper Lig, cho mượn từ Gaziantep, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Kosovo. Sự nghiệp thi đấu. Llapi. Ngày 18 tháng 6 năm 2018, Veliu ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ Llapi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Kosovo sau khi đồng ý đạt thỏa thuận kéo dài 3 năm. Ngày 29 tháng 9 năm 2018, anh ta ra mắt đội bóng trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước KEK, khi vào sân thay cho Festim Alidema. Gaziantep. Ngày 26 tháng 6 năm 2022, Veliu ký hợp đồng 3 năm với câu lạc bộ Gaziantep tại Süper Lig. Gaziantep được cho là đã trả 180 nghìn euro phí chuyển nhượng. Ngày 6 tháng 8 năm 2022, anh ta ra mắt đội bóng trong trận hòa 1–1 trước Sivasspor, khi vào sân thay cho Lazar Marković ở phút thứ 64. Sự nghiệp thi đấu. Ngày 24 tháng 12 năm 2019, Veliu được Đội tuyển bóng đá quốc gia Kosovo triệu tập để chuẩn bị cho trận giao hữu gặp Thụy Điển, và có trận ra mắt khi vào sân thay cho Herolind Shala ở phút thứ 46.
7,904,630
19,807,527
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807527
Danh sách loài họ Chồn hôi
Họ Chồn hôi (Mephitidae) là một họ thú thuộc Bộ Ăn thịt (Carnivora), gồm chồn hôi và lửng hôi. Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "mephitid". Các loài chồn hôi phổ biến trên khắp châu Mỹ, trong khi các loài lửng hôi xuất hiện ở quần đảo Sunda Lớn của Đông Nam Á. Các loài trong họ sống ở nhiều môi trường khác nhau, điển hình là đồng cỏ, rừng và cây bụi. Hầu hết các loài họ Chồn hôi dài , cộng đuôi , dù chồn hôi đốm lùn có thể nhỏ đến 11 cm (4 in) cộng đuôi 7 cm (3 in), và một số cá thể chồn hôi sọc có thể dài tới 82 cm (32 in) cộng đuôi 40 cm (16 in). Không có loài nào được ước tính về quy mô quần thể, nhưng có hai loài được phân loại là loài sắp nguy cấp. Các loài thuộc họ Chồn hôi nói chung không được thuần hóa, mặc dù chồn hôi đôi khi được nuôi làm thú cưng. Họ Chồn hôi có 12 loài, chia thành 4 chi: "Conepatus" (chồn hôi mũi lợn), "Mephitis" (chồn hôi), "Mydaus" (lửng hôi) và "Spilogale" (chồn hôi đốm). Họ Chồn hôi ban đầu là một nhánh trong họ Chồn (Mustelidae), với các loài lửng hôi được gộp chung với với những loài lửng khác trong chi "Melinae." Nhưng bằng chứng di truyền gần đây đã dẫn đến sự đồng thuận tách Mephitidae thành một họ riêng. Các loài đã tuyệt chủng cũng được xếp vào tất cả các chi còn tồn tại trừ "Mydaus", cũng như 9 chi đã tuyệt chủng. 26 loài tuyệt chủng đã được tìm thấy, mặc dù do quá trình nghiên cứu và khám phá vẫn đang diễn ra nên số lượng và phân loại vẫn chưa chính xác. Quy ước. Mã tình trạng bảo tồn được liệt kê tuân theo Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản đồ phân bố được đính kèm nếu có thông tin. Khi không có thông tin về bản đồ phân bố, sẽ được thay thế bằng mô tả về phạm vi môi trường hoạt động của loài. Vùng phân bố dựa trên danh sách đỏ IUCN cho loài đó trừ khi có ghi chú khác. Tất cả các loài hoặc phân loài đã tuyệt chủng được liệt kê cùng với các loài còn tồn tại đã tuyệt chủng sau năm 1500 và được biểu thị bằng biểu tượng thập tự "". Số liệu quần thể được làm tròn đến phần hàng trăm. Phân loại. Họ Chồn hôi có 12 loài còn tồn tại thuộc 4 chi, chia tiếp thành 60 phân loài. Họ này không có phân họ. Các số liệu này không bao gồm các loài lai hay các loài tiền sử tuyệt chủng. Danh sách loài họ Chồn hôi. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử.
7,904,648
19,807,628
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807628
Joma
Joma () là nhà sản xuất quần áo thể thao của Tây Ban Nha hiện đang sản xuất giày dép và quần áo cho bóng đá, futsal, bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, chạy bộ, quần vợt và padel. Trụ sở chính của nó được đặt tại Portillo de Toledo, Tây Ban Nha. Lịch sử. Joma được thành lập vào năm 1965 bởi Fructoso López để sản xuất giày cho mục đích sử dụng chung. Tên thương hiệu bắt nguồn từ tên con trai đầu lòng của Fructuoso (José Manuel). Năm 1968, công ty bắt đầu chuyên sản xuất và phân phối giày thể thao. Sau thành công tương đối, Joma tham gia vào thị trường bóng đá, gặt hái được nhiều thành công trong nước và quốc tế. Cuối cùng, Joma Sport đã mở văn phòng tại Hoa Kỳ, châu Âu và châu Á, hiện có mặt tại hơn 70 quốc gia trên toàn thế giới.
7,904,671
19,807,676
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807676
Lethrinus semicinctus
Lethrinus semicinctus là một loài cá biển thuộc chi "Lethrinus" trong họ Cá hè. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Từ nguyên. Từ định danh "semicinctus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "semi" ("một nửa") và "cinctus" ("quấn quanh"), hàm ý đề cập đến các vệt đen ngắn ở nửa trên của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "L. semicinctus" có phân bố tương đối rộng ở vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Sri Lanka trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và Fiji, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến bờ bắc Úc. Loài này cũng xuất hiện tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam). "L. semicinctus" sống gần các rạn san hô, trên nền đáy cát và thảm cỏ biển, trong đầm phá và đới mặt bằng rạn, độ sâu khoảng 4–35 m. Những cá thể có kích thước nhỏ (gần 4–10,5 cm) được thu thập trong một con lạch nhỏ trong rừng ngập mặn ở Philippines. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. semicinctus" là 35 cm. Cá có màu nâu thường hoặc nâu tanin, rải rác những đốm đen nhỏ. Một đốm đen lớn thuôn dài nằm bên dưới phần tia mềm của vây lưng, giáp ngay dưới đường bên. Các vây trắng nhạt hoặc phớt hồng. "L. semicinctus" có thể chuyển sang kiểu hình lốm đốm các vệt trắng và nâu đen, có lẽ là ngụy trang. Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 3 hoặc 4 thường dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số vảy đường bên: 46–48. Sinh thái. Thức ăn của "L. semicinctus" bao gồm cá nhỏ và những loài thủy sinh không xương sống khác ở tầng đáy. Thương mại. "L. semicinctus" không có giá trị thương mại cao, đôi khi loại bỏ do bị xem là sản lượng không mong muốn, có thể do kích thước nhỏ. Chúng được tiêu thụ chủ yếu bởi ngư dân đánh bắt thủ công.
7,904,683
19,807,702
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807702
Micae Phạm Minh Cường
Micae (Michael) Phạm Minh Cường (tên tiếng Anh thông dụng: Michael Pham; sinh 1967) là một giám mục tân cử người Mỹ gốc Việt. Ông được Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phụ tá , Hoa Kỳ. Ông là vị giám mục người Mỹ gốc Việt thứ tư phục vụ tại Hoa Kỳ, kể từ giám mục người Mỹ gốc Việt tiên khởi Đa Minh Mai Thanh Lương (2003). Rời Việt Nam thuở thiếu thời dưới dạng thuyền nhân năm 1980, cậu bé Cường đến trại tập trung tại Malaysia, sau đó được bảo trợ đến định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ. Trong vòng ba năm sau đó, gia đình cậu đoàn tụ tại Minnesota, và đến định cư tại San Diego, California vào năm 1985. Theo học và tốt nghiệp cử nhân, và sau đó là Thạc sĩ Kỹ thuật hàng không Đại học San Diego, cậu quyết định đi theo con đường tu trì. Sau quá trình tu học tại các Chủng viện Thánh Phanxicô và Thánh Patrick, cậu được truyền chức linh mục cho giáo phận vào năm 1999. Trước khi được bổ nhiệm chức giám mục phụ tá Giáo phận San Diego vào tháng 6 năm 2023, Giám mục tân cử người Mỹ gốc Việt Michael Pham nguyên là linh mục chánh xứ của giáo xứ Good Shepherd ở San Diego. Ông cũng là linh mục tổng đại diện của Giáo phận San Diego (từ năm 2018). Giám mục tân cử Micae Phạm Minh Cường có khả năng sử dụng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Thân thế và tu tập. Micae Phạm Minh Cường sinh ngày 27 tháng 1 năm 1967 tại Đà Nẵng, Việt Nam, là người con trai lớn nhất trong gia đình. Thân phụ ông là người Công giáo, từng cộng tác với người Mỹ do là thành viên trong quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau biến cố năm 1975, tài sản của ông bị tịch thu và bản thân ông này bị đưa đi học tập cải tạo, sau đó được trả tự do. Sau đó, ông trở thành một ngư dân và góp nhiên liệu để thay cho vàng cho chuyến tàu vượt biên. Sinh trưởng tại Việt Nam Cộng Hòa thuở thiếu thời trong thập niên 1970, cậu bé Cường có ấn tượng với linh mục cậu quen biết và đã có ước muốn làm linh mục khi cậu được 10 tuổi. Tháng 7 năm 1980, cậu bé Cường rời Việt Nam dưới dạng thuyền nhân, cùng với một người chị và em trai của mình trên một con thuyền quá tải, chở trên mình 119 cư dân trên tổng số trọng tải là cho 60 người, di chuyển trên một chiếc tàu không có thức ăn và rất ít nước uống, với không gian được mô tả là "không có chỗ để ngồi xuống" và "bị nhồi nhét như trong hộp cá mòi". Kế hoạch rời bến được đưa ra vào đêm cùng ngày khi chiếc thuyền-vốn bị tạm giữ do tham gia hoạt động vượt biên, được trả về vào sáng cùng ngày. Trải qua cướp biển và mạn tàu bị nứt phải vá tạm bằng quần áo, ba chị em cậu bé Cường sau đó cập bến trại tị nạn tại Pulau Bidong, Malaysia, sinh sống tại đây trong vòng ba tháng trước khi được một gia đình Hoa Kỳ bảo lãnh đến sinh sống tại Blue Earth, Minnesota. Đề đến được với người bảo trợ, ba chị em cậu Cường bị chuyển đến sống tại Kuala Lumpur trong một tháng, sau đó đến Nhật Bản, Seattle (Hoa Kỳ), và cuối cùng đến Minnesota vào cuối tháng 2 năm 1981. Một vài tháng sau đó, một người chị đến sinh sống cùng họ, và các thành viên còn lại trong gia đình (bốn anh chị em và song thân cậu Cường) đến định cư tại Minnesota từ năm 1983. Tại Minnesota, cậu bé Cường theo học trung học, nhưng rời đi khi chưa tốt nghiệp. Gia đình cậu Phạm Minh Cường rời Minnesota đến San Diego, California sinh sống vào năm 1985. Phạm Minh Cường tốt nghiệp trung học tại San Diego và theo học tại San Diego State University, tốt nghiệp cử nhân và thạc sĩ kỹ thuật hàng không. Sau đó, Phạm Minh Cường đi làm cho Continental Graphics, hỗ trợ lưu trữ thông tin của công ty Boeing. Phạm Minh Cường đã nộp đơn vào chủng viện mà không có sự chấp thuận của thân phụ, do ông này phản đối ý định tu trì của cậu. Cả hai ông bà song thân đều phản đối ý định tu trì, tuy vậy dần chấp nhận rằng họ không thể ngăn cản con trai theo con đường tu trì. Trước đó, Phạm Minh Cường có một mối tình đơn phương, tuy nhiên khi người này viết thư mong muốn nối lại mối quan hệ với cậu, cũng trong tuần đó, cha cậu đã quyết định đồng ý về việc cho cậu theo con đường tu trì. Cậu đã quyết định chọn đi theo con đường tu trì. Do nhận thấy có mong muốn đi theo con đường tu trì (ơn gọi), cậu chuyển đến học tại Chủng viện Thánh Phanxicô tại Đại học San Diego. Sau khi hoàn thành chương trình Chủng viện Saint Patrick ở Menlo Park, California, chủng sinh Phạm được thụ phong linh mục cho Giáo phận San Diego vào ngày 25 tháng 6 năm 1999. Linh mục. Sau khi được thụ phong linh mục, linh mục Micae Phạm Minh Cường (Michael Pham) thi hành mục vụ với vai trò linh mục phó xứ tại giáo xứ St. Mary, Star of the Sea ở Oceanside từ năm 1999 đến năm 2001. Ông làm giám đốc ơn gọi của giáo phận từ năm 2001 đến năm 2004. Michael Pham là linh mục chánh xứ giáo xứ Holy Family, San Diego từ năm 2004 đến năm 2014 và kiêm nhiệm tại giáo xứ St. Therese ở San Diego từ năm 2014 đến 2016. Năm 2016, ông được bổ nhiệm làm linh mục coi sóc giáo xứ Good Shepherd ở San Diego cho đến nay (2023). Giáo xứ này là một trong những giáo xứ lớn nhất của Giáo phận San Diego. Linh mục Cường sau đó là linh mục đại diện cho các cộng đồng sắc tộc và đa văn hóa kể từ năm 2017. Do chức vụ này, ông được ghi nhận là đã làm cho các cộng đồng đa sắc tộc trong giáo phận thêm vững mạnh. Kể từ sáu năm trước (2017), ông đã cho cử hành "Lễ Hiện Xuống cho mọi Dân tộc" và đã thu hút sự tham dự của ít nhất 2.000 giáo dân hằng năm. Kể từ ngày 5 tháng 9 năm 2019, linh mục Phạm Minh Cường là tổng đại diện của Giáo phận San Diego. Ông cũng là Tổng Đại diện gốc Việt tiên khởi tại giáo phận này. Linh mục Michael Phạm đã tham dự Chủng viện Saint Patrick ở Menlo Park, California vào năm 2020 và đã hoàn thành Chứng chỉ Thần học Thánh. Giám mục. Ngày 6 tháng 6 năm 2023, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã bổ nhiệm linh mục Michael Pham, Tổng Đại diện Giáo phận San Diego, làm giám mục phụ tá Giáo phận San Diego. Cùng trong tin bổ nhiệm này, Tòa Thánh cũng chọn linh mục Felipe Pulido, thuộc linh mục đoàn Giáo phận Yakima, Washington, làm giám mục phụ tá San Diego. Lễ tấn phong cho hai giám mục tân cử đã được ấn định vào ngày 28 tháng 9 năm 2023. Việc bổ nhiệm linh mục Michael Pham làm giám mục được công bố tại Washington, DC vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, bởi Tổng Giám mục Christophe Pierre, sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ. Theo số liệu linh mục Phạm Minh Cường cho biết, vào năm 2019, có khoảng 5.000 gia đình giáo dân gốc Việt tại Giáo phận San Diego, và bảy linh mục gốc Việt thực hiện việc mục vụ tại đây. Trong số linh mục này có ba vị đảm nhận chức chính xứ (2 giáo xứ Việt Nam và 1 giáo xứ Hoa Kỳ).
7,904,689
19,807,709
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807709
Đại học Srinakharinwirot
Đại học Srinakharinwirot (tiếng Thái: มหาวิทยาลัยศรีนครินทรวิโรฒ, phiên âm: Ma-ha-vi-tha-da-lai Xi-na-kha-lin-vi-lót, viết tắt: SWU, abbr: มศว) là một đại học công lập tại Băng Cốc, Thái Lan. Được thành lập năm 1949, trường đại học là tổ chức giáo dục đầu tiên chỉ tập trung đào tạo cho giáo viên. Tên ""Srinakharinwirot" "được đặt bởi Vua Bhumibol Adulyadej để tôn vinh mẹ của mình là vương thái hậu Srinagarindra (phiên âm là ). Đại học Srinakharinwirot có hai khuôn viên; khuôn viên Prasarnmit ở Watthana tại Băng Cốc và khuôn viên Ongkharak ở Ongkharak tại Nakhon Nayok. Ngoài ra các khuôn viên nhỏ khác bao gồm khuôn viên Đại học Bhodivijjalaya tại Sa Kaeo và Mae Chaem tại Chiang Mai. Đại học ban đầu có 8 khuôn viên theo vùng; Prasanmitr, Pathum Wan, Bang Saen, Phitsanulok, Maha Sarakham, Songkhla, Bang Khen và Phala Suksa (nghĩa là Giáo dục Thể chất). Khuôn viên Prasanmitr vẫn là trụ sở chính của đại học, trong khi khuôn viên Pathum Wan hiện tại là trường dạy học, Trường tiểu học Patumwan. Một số trường đại học mới được thành lập như; Đại học Burapha (trước đó là khuôn viên Bang Saen), Đại học Naresuan (trước đó là khuôn viên Phitsanulok), Đại học Mahasarakham (trước đó là khuôn viên Mahasarakham) và Đại học Thaksin (trước đó là khuôn viên Songkhla). Khuôn viên Bang Khen đã đóng cửa, dời đến trụ sở chính Prasarnmitr, khu vực đó ngày nay là Đại học Phranakhon Rajabhat. Cuối cùng, khuôn viên Phala Suksa đã đóng cửa và di chuyển đến khuôn viên Ongkharak, gọi là Khoa giáo dục thể chất.
7,904,690
19,807,715
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807715
Pectinida
Pectinida là một bộ động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển, có kích thước từ trung bình đến lớn. Nhiều loài trong số chúng thường được gọi với tên thông dụng là sò điệp. Các nhà nghiên cứu tin rằng chúng bắt đầu tiến hóa vào cuối Kỷ Ordovic giữa; nhiều loài, tất nhiên, vẫn còn tồn tại. Phân loại 2010. Năm 2010, một hệ thống phân loại mới được đề xuất cho nhóm động vật thân mềm hai mảnh vỏ (Bivalvia) đã được xuất bản bởi Bieler, Carter & Coan, trogn đó đã điều chỉnh lớp Bivalvia, bao gồm cả bộ Pectinida.
7,904,691
19,807,752
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807752
Đào Chú
Đào Chú (; ngày 16 tháng 1 năm 1908 – ngày 30 tháng 11 năm 1969) là chính khách và nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, giữ chức Bí thư Thường trực Ban Bí thư Trung ương kiêm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương và Cố vấn Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương vào năm 1966, từng được bầu làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện từ năm 1965 cho đến đầu năm 1967. Tiểu sử. Thời kỳ hoạt động cách mạng. Đào Chú tên thật là Tế Hoa, hiệu là Kiếm Hàn, còn có tên khác là Nhiệm Đào. Ông sinh ngày 16 tháng 1 năm 1908 trong một gia đình trí thức nghèo khổ ở thôn Lang Thụ, Thạch Động Nguyên, huyện Kỳ Dương tỉnh Hồ Nam. Năm 1914 khi Đào Chú lên 6 tuổi đi theo cha mình là Đào Thiết Tranh đến học trường Tư Thục ở Vũ Xương. Năm 1915 do vì Viên Thế Khải khủng bố phe cách mạng, Đào Thiết Tranh bèn đem cả nhà rời khỏi Vũ Hán trở về quê Kỳ Dương cùng với bạn thân mở trường dạy học kiểu mới Văn Xương Các, Đào Chú tiếp tục đi học tiểu học Văn Xương Các do cha ông làm hiệu trưởng. Năm 1918, cha và chú thứ ba bị Tiêu Diệu Nam, thuộc hạ của quân phiệt Bắc Dương Ngô Bội Phu giết chết, Đào Chú bỏ học do gia đình rơi vào cảnh túng quẫn, sau được người thân giới thiệu đi học nghề trong vài năm. Năm 1926, ông nhập học Trường Quân sự Hoàng Phố khóa 5 ở Quảng Châu, cùng năm đó, bạn học Triệu Thế Gia, Trần Bảo Hoa và Chiêm Bất Ngôn đã rủ ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đầu tháng 4 năm 1927, ông được cử đến Vũ Hán tham gia đội tuyên truyền của Tổng cục Chính trị Quốc dân Cách mệnh Quân. Sau khi sự hợp tác đầu tiên của Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản bị phá vỡ, Đào Chú bèn gia nhập Trung đoàn Cảnh vệ thuộc Quân đoàn 4 Quốc dân Cách mệnh Quân rồi lần lượt tham gia vào cuộc khởi nghĩa Nam Xương và khởi nghĩa Quảng Châu. Năm 1929, Đào Chú giữ chức Tổng thư ký kiêm Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến kiêm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Phúc Kiến. Tháng 5 năm 1930, ông đích thân dẫn 12 người đột kích vào Nhà tù Hạ Môn giải cứu hơn 40 đảng viên Đảng Cộng sản mà không có thương vong, khiến hơn 20 lính canh phòng Quốc Dân Đảng thiệt mạng, từng được coi là “Vụ cướp ngục Hạ Môn” gây chấn động cả nước lúc bấy giờ. Năm 1932, ông kết hôn với người bạn đời Tăng Chí và có một cô con gái đặt tên là Đào Tư Lượng. Năm 1933, Đào Chú đến làm việc tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở Thượng Hải nhưng không may bị Chính phủ Quốc dân phát hiện và bắt giữ, áp giải đến Bộ Tư lệnh Hiến binh Nam Kinh chịu án tù chung thân. Năm 1937, sau các cuộc đàm phán giữa Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh và chính phủ Quốc Dân Đảng; vào ngày 26 tháng 9, Hoàng Văn Kiệt đã giải cứu bảy người trong đó có Đào Chú ra khỏi nhà tù. Kháng chiến chống Nhật đến nội chiến. Sau khi Đào Chú vừa ra tù, ông liền được cử đến Hồ Bắc với tư cách là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền. Sau trận Vũ Hán vào tháng 10 năm 1938, quân du kích địa phương được tổ chức ở miền trung tỉnh Hồ Bắc và lập khu căn cứ địa du kích Ngạc Trung dựa trên núi Đại Hồng Sơn rồi đem quân tấn công huyện thành Vân Mộng vào ban đêm. Sau đó, ông gia nhập Chi đội Đỉnh Tiến, Dự Ngạc Tân Tứ quân do Lý Tiên Niệm tổ chức và giữ chức vụ chính ủy chi đội này. Năm 1940, Đào Chú đặt chân đến Diên An rồi ít lâu sau giữ chức Tổng thư ký Quân ủy Trung ương, Tổng thư ký Tổng cục Chính trị và Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền vào năm 1943. Năm 1945, Đào Chú tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 7. Đại hội quyết định phát động chiến tranh du kích tại biên khu Tương Việt Quế. Ông từng là phó bí thư tổ chức đảng biên khu và phó chính ủy chi đội 3 của Bát Lộ quân phía nam. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, ông được lệnh đi đến vùng Đông Bắc băng qua Thái Hành, Ký Trung và Ký Đông đến Sơn Hải Quan, giữa tháng 9 thì đến Thẩm Dương, đổi làm Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh rồi tham gia chiến dịch Tứ Bình, chịu trách nhiệm tổ chức hậu cần như tiếp tế đạn dược và vận chuyển thương binh. Tháng 9 năm 1947, ông kiêm nhiệm chức Chính ủy Tung đội 7 Quân đội Liên minh Dân chủ Đông Bắc. Sau chiến dịch Liêu Thẩm, Đào Chú giữ chức Bí thư Thành ủy Thẩm Dương và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quân quản Thẩm Dương. Tháng 1 năm 1949, Đào Chú rời Thẩm Dương cùng với Dã chiến quân Đông Bắc, trở thành Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Dã chiến quân Đông Bắc, tiến vào Sơn Hải Quan và tham gia chiến dịch Bình Tân. Ngày 21 tháng 1, trên cương vị là đại diện toàn quyền thuộc Bộ Tư lệnh Mặt trận Bình Tân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Đào Chú đã vào thành phố để đàm phán với Phó Tác Nghĩa. Hai bên bèn tuyên bố "Thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề hòa bình ở Bắc Bình" vào ngày hôm sau. Ông liền chỉnh biên quân đội Quốc Dân Đảng đầu hàng ở Bắc Bình nhờ vậy mà thành phố này đã thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh. Tháng 5 năm 1949, Đào Chú giữ chức Ủy viên Cục Hoa Trung Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu Hoa Trung kiêm Đệ tứ Dã chiến quân, chịu trách nhiệm tiếp quản ba thị trấn ở Vũ Hán. Sự nghiệp chính trị từ sau năm 1949. Tháng 10 năm 1950, Đào Chú nhận lệnh của Chính phủ Trung ương đến Quảng Tây chủ trì công tác tiễu phỉ, lãnh đạo cuộc chiến thanh lọc tàn quân Quốc Dân Đảng và thổ phỉ, nhanh chóng ổn định trật tự xã hội. Một năm sau, ông được điều đến Quảng Châu công tác. Ngày 15 tháng 12 năm 1951, chính phủ bổ nhiệm Đào Chú làm Bí thư phân cục Hoa Nam kiêm Chính ủy Quân khu Hoa Nam. Tháng 5 năm 1953, ông kiêm quyền Chủ tịch Chính phủ Nhân dân tỉnh Quảng Đông. Từ ngày thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 cho đến năm 1965, Đào Chú được cử làm Phó Thủ tướng Quốc vụ viện tại hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa III tháng 1 năm 1965, còn giữ các chức vụ phó chủ nhiệm Ban Chính trị Quân khu Trung Nam, sau đó là Chủ nhiệm, quyền Bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, Tỉnh trưởng Quảng Đông, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, Bí thư thứ nhất Cục Trung Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Chính ủy Quân khu Quảng Châu. Năm 1958, trong giai đoạn đầu của Đại nhảy vọt, ông đã tham gia nhiệt tình vào "chiến dịch chống tích trữ" ở Quảng Đông, tin rằng các số liệu sản xuất được báo cáo là có thật và tình trạng thiếu lương thực quan sát được chỉ là do nông dân tích trữ. Trong vòng một năm, ông chợt nhận ra sai lầm của mình khi chiến dịch do mình phát động không thể phát hiện ra nguồn cung cấp lương thực dự trữ trong các ngôi làng; trên thực tế, hầu hết nông dân đều chết đói. Trong Hội nghị Lư Sơn năm 1959, ban đầu ông có thiện cảm với Bành Đức Hoài khi ông chỉ trích Đại nhảy vọt. Tuy nhiên, sau phản ứng gay gắt từ Mao Trạch Đông, Đào Chú đã đổi phe và hùa theo những cuộc công kích của chủ tịch Mao nhằm vào "thành phần cực hữu", đệ trình danh sách các quan chức của chính mình mà ông xác định là "phe tả khuynh". Tuy vậy, ngay tại Quảng Đông, chính phủ của ông đã thực hiện các bước hòng đảo ngược thiệt hại của Đại nhảy vọt bằng cách mở rộng quyền sở hữu đất đai của từng nông dân và cho phép họ di cư đến Hồng Kông mưu sinh. Hoạt động dưới thời Cách mạng Văn hóa. Tháng 6 năm 1966, Đào Chú rời khỏi Quảng Châu đi đến Bắc Kinh nhằm thay thế Lục Định Nhất làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trung ương. Trong suốt thời gian đầu công tác ở Bắc Kinh, ông còn được cử làm Bí thư thường trực Ban Bí thư Trung ương đồng thời là cố vấn Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương. Tháng 8 năm 1966, Trung ương mở hội nghị 11 khóa 8 đã bầu bổ sung Đào Chú vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và chọn làm Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị xếp sau Mao Trạch Đông, Lâm Bưu và Chu Ân Lai, trở thành người quan trọng đứng thứ tư trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều đó cho phép người được ông bảo trợ là Triệu Tử Dương lên nắm quyền điều hành tỉnh Quảng Đông. Đào Chú và Triệu Tử Dương là một trong những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc ủng hộ Hồng vệ binh nhiệt tình nhất lúc ban đầu nhưng nhanh chóng đánh mất sự ủng hộ này vì họ cố gắng kiểm soát sự thái quá của phe cánh tả cấp tiến do Trương Xuân Kiều và Giang Thanh lãnh đạo. Đào Chú trở thành Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 vào tháng 8 năm 1966 khi bắt đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng đã bị đánh đổ ngay sau đó do bất đồng ý kiến về hoạt động của Tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương, đến nỗi bị phe cánh Lâm Bưu, Giang Thanh bôi nhọ là "người đại diện đường lối Lưu, Đặng", "phái bảo hoàng giai cấp tư sản lớn nhất Trung Quốc" và "kẻ có dã tâm kiểu Khrushchev". Sau cùng ông quản thúc tại gia và bãi miễn mọi chức vụ vào ngày 10 tháng 1 năm 1967. Trong thời gian bị quản thúc tại gia nghiêm ngặt, ông được bác sĩ chẩn đoán mắc bệnh ung thư túi mật nhưng bị từ chối điều trị y tế lúc đầu. Thủ tướng Chu Ân Lai cuối cùng đã phải can thiệp để sắp xếp làm phẫu thuật cho ông nhưng khi đó bệnh ung thư của Đào Chú đã trầm trọng đến mức vô phương cứu chữa. Ngày 15 tháng 10 năm 1969, ông nhận được thông báo lập tức rời khỏi Bắc Kinh, chuyển tới Hợp Phì tỉnh An Huy trong tình cảnh phải tự lo liệu lấy cuộc sống một mình kèm theo sự dày vò của bệnh tật và tinh thần đến mức nằm liệt giường. Ngày 30 tháng 11 năm 1969, Đào Chú đã qua đời trong bệnh viện, hưởng thọ 61 tuổi. Người thân còn không được phép viếng thăm ông trên giường bệnh hoặc sau khi ông qua đời. Ông chỉ được minh oan sau khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền vào năm 1978. Liên kết ngoài.
7,904,697
19,807,782
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807782
Vụ phá đập Kakhovka
Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, đập nước Kakhovka ở Ukraina bị vỡ, gây ra lũ lụt trên diện rộng. Nằm trên sông Dnepr ở tỉnh Kherson, con đập nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nga, lực lượng đã chiếm giữ khu vực này trong những ngày đầu của chiến dịch Nga xâm lược Ukraina. Chính quyền Nga đổ lỗi cho vụ vỡ đập do pháo kích của Ukraina. Ukraina và các đồng minh cáo buộc lực lượng Nga cho nổ tung con đập để cản trở kế hoạch phản công của Ukraina. Mực nước trong hồ chứa Kakhovka đã tăng lên trong nhiều tháng và ở mức cao nhất từ khi có con đập này khi con đập bị vỡ. Hàng nghìn cư dân đã được sơ tán ở hạ lưu khi lũ lụt nhấn chìm một số ngôi làng ở các khu vực do Ukraina và Nga kiểm soát. Việc mất nước trong hồ chứa Kakhovka đe dọa nguồn cung cấp nước cho Krym do Nga chiếm đóng và nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia do Nga chiếm giữ. Vụ phá hủy đập. Vào lúc 02h50 giờ địa phương sáng ngày 6 tháng 6 năm 2023, Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy cho biết một "vụ nổ bên trong các cấu trúc" của con đập đã xảy ra. Phần giữa của con đập rộng 3,2 km trên thực tế đã bị phá hủy, dẫn đến lũ lụt trên diện rộng ở vùng hạ lưu. Vào thời điểm bị phá hủy, con đập nằm dưới sự kiểm soát của Nga và mực nước đã tăng lên mức cao nhất trong 30 năm. Hình ảnh vệ tinh do BBC News thu được chỉ ra rằng tình trạng của con đập đã xuống cấp kể từ ngày 1 tháng 6 hoặc sớm hơn, với con đường xuyên qua đập bị hư hại một số vào ngày 2 tháng 6. Thủ phạm phá hoại. Người ta vẫn còn tranh cãi thủ phạm phá hoại con đập này. Không bên nào cung cấp bằng chứng công khai ngay lập tức để hỗ trợ các cáo buộc của họ. Tuyên bố về trách nhiệm của Nga. Chính quyền Ukraina cho rằng các lực lượng Nga đã phá hủy con đập. Cơ quan thủy điện nhà nước Ukraina, Ukrhydroenergo, tuyên bố rằng con đập đã "bị phá hủy hoàn toàn" sau một vụ nổ từ bên trong phòng máy và không thể phục hồi. Các quan chức Ukraina cho biết Nga đã phá hủy con đập "trong cơn hoảng loạn" để làm chậm kế hoạch phản công của Ukraina. Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina Dmytro Kuleba đã chỉ trích các phương tiện truyền thông quốc tế vì đã trình bày các quy kết của Ukraine và Nga là đáng tin cậy như nhau, cho rằng điều này "đặt sự thật và tuyên truyền ngang hàng nhau." Thủ tướng Đức Olaf Scholz chỉ ra "Theo các thông tin thu thập được, đây là hành động gây hấn của phía Nga nhằm ngăn chặn cuộc tấn công của Ukraine, để bảo vệ đất nước của chính họ." Tuyên bố về trách nhiệm của Ukraina. Thị trưởng Nova Kakhovka do Nga bổ nhiệm ban đầu nói rằng con đập không bị hư hại nhưng sau đó cáo buộc Ukraina. Dmitry Peskov, thư ký báo chí của Vladimir Putin, phủ nhận cáo buộc Nga tham gia vào việc phá hủy con đập và gọi đó là hành động phá hoại của Ukraina. Truyền thông nhà nước Nga cho rằng vụ phá hủy là do hỏa lực pháo binh từ một bệ phóng nhiều tên lửa Vilkha. Phản ứng. Nga. Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov cho biết: "Vụ phá hoại này cũng liên quan đến thực tế là, đã tiến hành các hoạt động tấn công quy mô lớn hai ngày trước, các lực lượng vũ trang Ukraina đã không đạt được mục tiêu của họ. Chính quyền Kiev phải chịu mọi trách nhiệm về mọi hậu quả ”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova nói: "... Tôi đang nói về những gì đã xảy ra ngày hôm qua tại Nhà máy thủy điện Kakhovka. Đây thực sự nên là một chủ đề của nghiên cứu, nghiên cứu và điều tra trên toàn thế giới. Phản ứng của phương Tây trong tất cả các tình huống như vậy là có thể đoán trước 100%. Đó là một mong muốn vô tận để đổ lỗi cho Nga về mọi thứ xảy ra, bất kể nó thực sự xảy ra hay chỉ là một điều hư cấu." Ukraina. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy cho biết: "Việc những kẻ khủng bố Nga phá hủy đập nhà máy thủy điện Kakhovka chỉ khẳng định với toàn thế giới rằng chúng phải bị trục xuất khỏi mọi ngóc ngách trên đất Ukraina." Andriy Yermak, Trưởng Văn phòng của Tổng thống Ukraine, gọi việc phá hủy con đập là "sự hủy diệt sinh thái". Bộ Ngoại giao Ukraina cho biết: "Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế kiên quyết lên án vụ tấn công khủng bố của Nga vào Nhà máy thủy điện Kakhovka (Nhà máy thủy điện)", kêu gọi tổ chức một phiên họp của UNSC và một cuộc họp với IAEA. Tổng công tố Ukraina cho biết họ đang điều tra vụ phá hủy như một tội ác chiến tranh. Cựu Bộ trưởng Bộ Sinh thái Ukraine Ostap Semerak nói rằng: "Điều này sẽ có tác động đến Romania, Georgia, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria. Nó sẽ có hại cho tất cả các khu vực. Chính phủ của chúng tôi đã tuyên bố đây là thảm họa môi trường lớn nhất ở châu Âu trong 10 năm qua, và tôi nghĩ đó có thể là điều tồi tệ nhất ở Ukraine kể từ thảm họa Chernobyl năm 1986." Cộng đồng quốc tế. Việc phá hủy con đập đã được các nhà lãnh đạo phương Tây mô tả là tội ác chiến tranh; Điều 56 của Nghị định thư I của Công ước Geneva nghiêm cấm việc cố tình phá hủy "các công trình chứa các lực nguy hiểm" như đập. António Guterres, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, nói rằng sự sụp đổ là "một hậu quả tàn khốc khác của cuộc xâm lược Ukraine của Nga", và tuyên bố rằng: "Các cuộc tấn công nhằm vào thường dân và cơ sở hạ tầng dân sự quan trọng phải dừng lại." Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg gọi sự kiện này là "thái quá" và nói rằng nó cho thấy "sự tàn bạo của cuộc chiến tranh của Nga ở Ukraina". Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Charles Michel gọi việc cho nổ tung một nhà máy thủy điện là một tội ác chiến tranh của Nga. Hội đồng Châu Âu tuyên bố: "Chúng tôi lên án mạnh mẽ nhất việc phá hủy đập Nova Kakhovka ở vùng Kherson của Ukraine".
7,904,702
19,807,878
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807878
Hà Trọng Sơn
Hà Trọng Sơn (sinh năm 1920; mất năm 2010) là một võ sĩ quyền Anh người Việt Nam. Trong sự nghiệp thi đấu của mình, ông đã đánh bại nhiều đối thủ trong và ngoài nước nên được người đời mệnh danh là "hùm xám miền Trung". Đầu đời. Hà Trọng Sơn sinh ngày 1 tháng 6 năm 1920 tại làng võ Phước An, Tuy Phước, Bình Định trong một gia đình có truyền thống võ đạo. Vốn đam mê võ thuật từ khi còn nhỏ, năm 8 tuổi, ông theo học võ của các anh em trong gia đình là võ sư Hà Cảnh, Hà Tùng, Hà Để, rồi sau đó là võ sư Lâm Đắc Đạo và ông Beo người gốc Hoa. Năm 17 tuổi, Hà Trọng Sơn được một sĩ quan người Pháp dạy quyền Anh. Thượng đài. Năm 1943, tại đại hội quyền thuật Đông Dương tổ chức ở Nha Trang, Hà Trọng Sơn đánh bại võ sĩ nổi tiếng của Pháp là F. Nicolai và võ sĩ Tiết Mãnh. Một năm sau, tại hội thi võ thuật Đông Dương tổ chức ngày 12 tháng 10 năm 1944 ở Đà Nẵng, Hà Trọng Sơn tiếp tục giành chiến thắng trước võ sĩ người Pháp khác là Esperpaire. Trong nhiều năm sau, Hà Trọng Sơn liên tiếp giành được những thắng lợi trên sàn đài trước nhiều võ sĩ trong và ngoài nước, và từng bất phân thắng bại với Kid Dempsey. Cái tên "hùm xám miền Trung" vang danh từ đó. Ngày 17 tháng 8 năm 1960, Hà Trọng Sơn có trận so găng với võ sĩ gốc Thái Lan Ku Xam Thum. Sau 5 hiệp bất phân thắng bại, đến hiệp thứ 6, Hà Trọng Sơn tung đòn hạ knock out Ku Xam Thum, qua đó giành thắng lợi chung cuộc. Từ năm 1966 đến năm 1983, Hà Trọng Sơn có nhiều trận thi đấu võ thuật với đại võ sư Huỳnh Tiền. Cả hai đã giành được một số chiến thắng. Cuối đời. Những năm cuối đời, Hà Trọng Sơn sống ẩn dật. Ông truyền lại võ công "quyền ba chân hổ" cho võ sư Hà Trọng Ngự, sau này thành lập võ đường Hà Trọng. Ông qua đời những ngày cuối tháng 3 năm 2010.
7,904,715
19,807,944
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807944
Động đất Tây Bắc Chiba 2005
là trận động đất xảy ra vào lúc 16:35 (theo giờ địa phương), ngày 23 tháng 7 năm 2005. Trận động đất có cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 73 km. Không có cảnh báo sóng thần đưa ra, nhưng trận động đất đã làm 35 người bị thương, trong đó có hai trường hợp bị thương nặng.
7,904,726
19,807,950
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807950
Trần Thị Biền
Trần Thị Biền (? – 1945) là một cựu Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phản bội. Cuộc đời. Trần Thị Biền là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Quảng Trị. Năm 1942, được Xứ ủy Trung Kỳ điều động đi hoạt động ở tỉnh khác. Tháng 7 năm 1942, Trần Thị Biền bị bắt ở Nghệ An, bị Chánh mật thám Pháp ở Quảng Trị là Fidalenc dụ dỗ, trở thành tình nhân của Fidalenc, phản bội tổ chức, khai báo khiến nhiều cơ sở Đảng bị vỡ, nhiều người bị bắt. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở phủ Triệu Phong, Trần Thị Biền bị người dân bắt giữ và xử bắn cùng với Tri phủ Triệu Phong tên là Cho và mật thám người Việt tên là Chước.
7,904,727
19,807,954
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807954
Nadezhda của Bulgaria
Nadezhda của Bulgaria (Tiếng Bulgaria: "Княгиня Надежда"; tên đầy đủ là Nadezhda Klementina Mariya Piya Mazhella (Надежда Клементина Мария Пия Мажелла); Tiếng Đức: "Nadeschda von Bulgarien"; 30 tháng 1 năm 1899 – 15 tháng 2 năm 1958) là một thành viên của Vương thất Bulgaria. Tiểu sử. Nadezhda sinh ra ở Sofia, là con gái út của Ferdinand I của Bulgaria và người vợ đầu tiên là Maria Luisa của Parma, người đã qua đời khi sinh Madezhhda. Cùng với chị gái là Vương nữ Evdokiya, Nadezhda được giáo dục dưới sự chỉ dẫn của mẹ kế là Công chúa Eleonore xứ Reuß-Köstritz. Vương nữ Nadezhda kết hôn vào ngày 24 tháng 1 năm 1924 với Albrecht Eugen của Württemberg con trai thứ hai của Albrecht, Công tước của Württemberg và Margarete Sophie của Áo, tại Bad Mergentheim, Đức. Hai vợ chồng có với nhau năm người con: Vương nữ Nadezhda qua đời ở tuổi 59 tại Stuttgart, Đức.
7,904,731
19,807,955
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19807955
Evdokiya của Bulgaria
Evdokiya của Bulgaria (tiếng Bulgaria: "Княгиня Евдокия"; tên đầy đủ là Evdokiya Augusta Filipina Klementina Mariya; 5 tháng 1 năm 1898 – 4 tháng 10 năm 1985) là một thành viên của Vương thất Bulgaria cũng như là một người em gái đầy yêu thương và là người bạn tâm giao của Quốc vương Boris III của Bulgaria. Tiểu sử. Evdokiya sinh ngày 5 tháng 1 năm 1898 tại Sofia, là người con thứ ba và là con gái đầu lòng của Quốc vương Ferdinand I của Bulgaria (bấy giờ là Thân vương của Bulgaria) và người vợ đầu tiên là Maria Loisa của Parma. Evdokiya có hai người anh trai và một em gái. Khi được 1 tuổi, mẹ của Evdokiya đã qua đời khi sinh em gái là Nadezhda. Ngay từ khi còn nhỏ, Evdokiya đã yêu thích đến mỹ thuật. Cùng với em gái Nadezhda, hai chị em trở thành những người bạn tâm giao của anh trai Boris III. Vương nữ Evdokiya cũng không bao giờ kết hôn, mặc dù có những tin đồn rằng Evdokya muốn gả cho một người quý ông gốc Bulgaria, điều mà vương thất không thể được chấp nhận lúc bấy giờ. Evdokiya đã cống hiến cuộc đời mình cho Bulgaria và đảm nhiệm vai trò của một Đệ nhất phu nhân cho đến khi anh trai Boris III kết hôn với Vương nữ Giovanna của Ý thuộc Vương tộc Savoia . Sau này, Evdokiya định cư ở Đức và sống gần với em gái Nadezhda. vương nữ qua đời vào ngày 4 tháng 10 năm 1985, hưởng thọ 87 tuổi. Trong cuốn sách "Giovanna of Bulgaria: The Queen of Charity", tác giả đã viết rằng:"…Eudoxie had an exceptional personality, with a quick mind, alert, watchful eyes, an uncanny feeling for people and events. Of all of King Ferdinand's children she is said to have inherited most of his typical character traits. Usually kind and witty, she could be sharp, critical and even sarcastic towards those she thought deserved it. Her authoritarian behaviour towards people contrasted with her full and utter devotion to her brother. She spent the happiest and most difficult times for the crown at his side…"
7,904,732
19,808,034
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808034
Alvó nő fekete vázával
Alvó nő fekete vázával ("Quý bà ngủ với bình hoa đen") là một bức tranh sơn dầu năm 1927–1928 của Róbert Berény. Bức tranh miêu tả vợ của họa sĩ đang nằm ngủ trong chiếc váy màu xanh, sau chiếc bàn có đặt một chiếc bình màu đen. Bức tranh được bán vào năm 1928 và bị xem là đã thất lạc sau Thế chiến thứ hai. Bức họa được bán đấu giá với tên tác giả Berény vào giữa thập niên 1990. Tác phẩm bị xem là định giá rẻ vào thời điểm ấy và rồi được bán cho Sony Pictures, hãng đã sử dụng bức họa trong bộ phim năm 1999 "Stuart Little" làm đạo cụ bối cảnh trong nhà của nhân vật chính. Năm 2009, nhà sử học nghệ thuật Gergely Barki nhận định được bức tranh khi xem phim cùng con gái và lần ra nó. Bức họa thuộc sở hữu của một nhà thiết kế, cô bán nó cho một nhà sưu tập nghệ thuật, rồi người này bán tiếp nó trong cuộc đấu giá vào năm 2014 với giá 285.700 USD. Miêu tả. Bức tranh là bức chân dung vẽ người vợ thứ hai của Berény, Eta (nhũ danh Breuer) và được sáng tác theo phong cách art deco. Đây được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Berény. Đối tượng trong bức họa đang ngủ để kiểu tóc đặc trưng ở thập niên 1920 và mặc một chiếc váy màu xanh lam. Cô ngả người ra sau chiếc bàn có đặt một chiếc bình đen. Tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu trên một canvas theo chiều ngang, có kích thước . Chữ ký của tác giả nằm ở phía dưới bên trái của bức hình. Nhà sử học nghệ thuật Judit Virág mô tả "Alvó nő fekete vázával" là đại diện "hoàn hảo" của nghệ thuật châu Âu thập niên 1920 kết hợp các yếu tố xu hướng nghệ thuật đương đại của Pháp, Đức và Nga. Lịch sử. Hoàn cảnh ra đời. Berény có thể đã vẽ "Alvó nő fekete vázával" từ năm 1927 đến năm 1928, lúc mà ông trở về Budapest, quê hương Hungary từ Berlin (nơi ông chạy trốn sau Thế chiến thứ nhất). Bức tranh được công chúng trông thấy lần cuối vào năm 1928 khi nó được trưng bày tại Bảo tàng Ernst rồi bị đem bán. Khách hàng mua bức họa có thể là người Do Thái và rời khỏi đất nước trước hoặc trong Thế chiến thứ hai. Hungary rất bất ổn trong thời kỳ này và bức tranh bị coi là thất lạc. Tái phát hiện. Bức tranh được bán với giá 40 đô la Mỹ cho nhà sưu tập nghệ thuật Michael Hempstead ở một buổi đấu giá từ thiện tại nhà đấu giá St Vincent de Paul ở San Diego vào giữa thập niên 1990. Anh bán nó cho một cửa hàng đồ cổ ở Pasadena, California với giá 400 đô la Mỹ, đây là mức giá dành cho một tác phẩm của Berény vào thời điểm ấy. Rồi một nhà thiết kế bối cảnh mua lại bức tranh từ cửa hàng, thay mặt cho Sony Pictures, với giá 500 đô la Mỹ. Năm 1999, Hempstead nhận ra bức tranh trong bộ phim "Stuart Little", trong đó nó được sử dụng làm đạo cụ bối cảnh ở các cảnh quay nội thất ngôi nhà của nhân vật chính. Hempstead cân nhắc theo dõi bức tranh và mua lại nó, biết rằng giá các tác phẩm của Berény đã tăng lên kể từ khi ông bán nó. Ngoài "Stuart Little", bức tranh còn xuất hiện trong một số tập phim kịch xà phòng, bao gồm một số tập "Family Law". Sau đấy nhà thiết kế bối cảnh mua bức tranh từ công ty điện ảnh để treo trong nhà cô ấy. Ngày 24 tháng 12 năm 2009, nhà nghiên cứu và sử gia nghệ thuật của Phòng trưng bày Quốc gia Hungary, ông Gergely Barki đã nhận ra bức tranh trong lúc theo dõi "Stuart Little" tại nhà với cô con gái ba tuổi của mình. Barki nhận ra bức tranh từ một bức ảnh đen trắng năm 1928 mà ông từng xem. Vì không có phần mềm để lưu nên ông không thể tạm dừng hoặc tua lại các đoạn phim có bức tranh, nhưng nó được chiếu thường xuyên trong phim. Barki tin rằng bức tranh khó có thể là bản in hay bản sao vì nó không được nhiều người biết đến. Barki đã gửi 40–50 email đến các công ty sản xuất và ê-kíp làm phim khác nhau để cố gắng truy dấu bức tranh. Sau hai năm, ông nhận được phản hồi từ nhà thiết kế sở hữu nó. Barki được mời đến Hoa Kỳ (nơi bức tranh được treo trong nhà của nhà thiết kế bối cảnh) để xác nhận danh tính của nó. Barki đã gặp nhà thiết kế bối cảnh trong một công viên ở Washington, DC, và sau khi tháo khung bằng một chiếc tuốc nơ vít mượn từ một người bán hot dog, ông có thể xác nhận bức tranh là thật. Cuối cùng, nhà thiết kế bối cảnh bán tác phẩm cho một nhà sưu tập nghệ thuật, rồi người này đem nó ra đấu giá vào tháng 12 năm 2014. Bức tranh được niêm yết với giá dự trữ là 121.220 đô la Mỹ và được bán cho một nhà sưu tập giấu tên người Hungary với giá 285.700 đô la Mỹ vào ngày 13 tháng 12. Do sự nổi tiếng có được nhờ hành trình tái phát hiện lạ lùng của bức tranh, tác phẩm được mô tả là bức tranh Hungary được nhiều người biết đến nhất.
7,904,746
19,808,124
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808124
Cha Junhwan
Cha Junhwan (Hangul: 차준환, sinh ngày 21 tháng 10 năm 2001) là một vận động viên trượt băng nghệ thuật người Hàn Quốc, thi đấu ở hạng mục đơn nam. Anh là nhà vô địch tại Giải Vô địch Bốn Châu Lục năm 2022, hai lần Vô địch tại Grand Prix cấp thiếu niên, Á quân tại Giải Vô địch Thế Giới 2023, giành Huy chương Đồng tại Grand Prix Final 2018 - 2019, và là nhà Vô địch Quốc gia Hàn Quốc trong 7 năm liên tiếp (2016 - 2023). Cha là vận động viên nội dung đơn nam đầu tiên của Hàn Quốc giành được huy chương tại Giải Vô địch Bốn Châu Lục, giải Vô địch Thế giới, Grand Prix Final cấp thiếu niên và trưởng thành. Tiểu sử. Cha sinh ngày 21 tháng 10 năm 2001 tại Seoul, Hàn Quốc. Anh theo học tại và trở thành sinh viên tại Đại học Hàn Quốc vào năm 2020. Trước khi bắt đầu sự nghiệp trượt băng nghệ thuật của bản thân, Cha đã hoạt động nghệ thuật với tư cách là một diễn viên, người mẫu, và vũ công ballet nhí. Sự nghiệp. Khởi đầu. Cha bắt đầu trượt băng từ năm 7 tuổi . Huấn luyện viên đầu tiên của anh là cựu vận động viên trượt băng nghệ thuật Shin Hea-sook, người đã từng tham gia Thế Vận hội Mùa đông năm 1980. Cha tham gia thi đấu tại Giải Vô địch Quốc gia Hàn Quốc năm 2011 và xếp thứ tư. Một năm sau đó, anh giành được huy chương vàng tại giải đấu nói trên. Tại mùa giải 2012 - 2013, Cha đã giành chức vô địch cấp độ thiếu nhi (Novice) tại Cúp trượt băng nghệ thuật châu Á và giải Vô địch Quốc gia cấp độ thiếu niên. Tại giải đấu đầu tiên với cấp độ trưởng thành là giải Vô địch Quốc gia năm 2014, anh xếp thứ 5. Mùa giải 2014 - 2015, Cha đã giành chức Vô địch cho cấp độ thiếu nhi tại Merano Cup và huy chương đồng tại giải Vô địch Quốc gia cấp độ trưởng thành. Tháng Ba năm 2015, Cha chuyển đến Toronto và trở thành học trò của Brian Orser. Cấp độ thiếu niên (Junior). Mùa giải 2015 - 2016. Cha đã giành được huy chương vàng ngay trong lần xuất hiện đầu tiên của bản thân trên đấu trường quốc tế tại giải . Tại giải Vô địch Quốc gia năm 2016, anh thi đấu với phần tai bị nhiễm trùng và giành được huy chương đồng. Tháng Hai năm 2016, anh đại diện Hàn Quốc thi đấu tại Thế Vận hội Trẻ Mùa đông ở Lillehammer và hoàn thành ở vị trí thứ 5 chung cuộc. Một tháng sau, anh tiếp tục tham gia giải Vô địch Thế giới cấp độ Thiếu niên và xếp hạng bảy chung cuộc. Mùa giải 2016 - 2017. Mùa giải này đánh dấu sự xuất hiện của Cha ở Grand Prix cấp độ Thiếu niên với . Hai bài thi của anh diễn ra gần như hoàn hảo, mang lại cho anh số điểm cá nhân cao nhất tính đến thời điểm đó và xác lập một kỉ lục thế giới về số điểm tổng cao nhất đối với vận động viên nam cấp độ thiếu niên. Việc giành được huy chương vàng tại cuộc thi này đã giúp cho anh có được cơ hội tham gia vào Grand Prix Final cấp độ Thiếu niên và giành được huy chương đồng. Cùng trong năm 2017, Cha đã đạt được danh hiệu Vô địch Quốc gia đầu tiên của mình; đồng thời, anh xếp thứ 5 tại giải Vô địch Thế giới cấp độ Thiếu niên. Cấp độ trưởng thành (Senior). Mùa giải 2017 - 2018. Vượt qua những trở ngại về thể chất và trục trặc về giày trượt, Cha giành được tấm huy chương vàng thứ hai tại giải Vô địch Quốc gia. Với số điểm tổng kết cao nhất sau ba cuộc thi đánh giá năng lực và tuyển chọn, anh đã được chọn tham dự Thế Vận hội Mùa đông 2018 được tổ chức tại Pyeongchang với tư cách là đại diện của Hàn Quốc. Anh là vận động viên đơn nam trẻ tuổi nhất tại kì Thế Vận hội năm đó và xếp hạng 15 chung cuộc Mùa giải 2018 - 2019. Mùa giải 2018 - 2019 của Cha khởi đầu khá thuận lợi khi anh xếp hạng 2 chung cuộc tại Autumn Classic với số điểm cá nhân cao nhất . Thành tích tương tự cũng được ghi nhận tại cúp Finlandia. Tại lần xuất hiện đầu tiên trong một cuộc thi thuộc chuỗi giải Grand Prix, tức Skate Canada 2018, Cha đạt hạng 3 chung cuộc. Điều này đã giúp anh nối tiếp đàn chị Kim Yuna và trở thành vận động viên Hàn Quốc thứ hai giành được huy chương tại chuối giải Grand Prix. Sau đó, tại , anh đã mang về cho bản thân tấm huy chương đồng tiếp theo. Thành tích của anh tại hai cuộc thi trên đã giúp anh sở hữu tấm vé đến Grand Prix Final và trở thành vận động viên đơn nam đầu tiên của Hàn Quốc làm được điều này. Ở Grand Prix Final 2018, Cha đã giành được huy chương đồng, tiếp nối chuỗi thành tích chưa từng có tiền lệ cho nội dung đơn nam của trượt băng nghệ thuật Hàn Quốc. Sau khi Vô địch Quốc gia lần thứ ba liên tiếp, Cha thi đấu tại giải Vô địch Bốn Châu lục 2019. Bài thi ngắn của anh diễn ra khá suôn sẻ và được xếp hạng 2; tuy nhiên, tại phần thi tự do, sáu cú nhảy của anh bị đánh giá là "thiếu vòng" và khiến thành tích của anh tụt xuống hạng 8 và xếp hạng 6 chung cuộc. Anh kết thúc mùa giải với hạng 18 cho cả hai bài thi và hạng 19 chung cuộc tại giải Vô địch Thế giới 2019.
7,904,767
19,808,387
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808387
Kherson (tỉnh của Đế quốc Nga)
Tỉnh Kherson, cho đến năm 1803 gọi là tỉnh Nikolaev, là một tỉnh (guberniya) của Đế quốc Nga, với trung tâm là Kherson. Tỉnh này có diện tích 71.936 km² và có dân số 2.733.612 người tại thời điểm điều tra dân số năm 1897. Tỉnh này giáp với tỉnh Podolia ở phía tây bắc, tỉnh Kiev ở phía bắc, tỉnh Poltava ở phía đông bắc, tỉnh Yekaterinoslav ở phía đông, tỉnh Taurida về phía đông nam, biển Đen ở phía nam và tỉnh Bessarabia ở phía tây. Tỉnh này đại khái tương ứng với phần lớn các tỉnh Mykolaiv, Kirovohrad và Odesa ngày nay và một phần của các tỉnh Kherson và Dnipropetrovsk. Nền kinh tế của tỉnh chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Trong vụ thu hoạch ngũ cốc, hàng nghìn lao động nông nghiệp từ các vùng của Đế quốc tìm được việc làm trong khu vực. Lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế kém phát triển, bao gồm chủ yếu là xay xát bột mì, chưng cất, công nghiệp gia công kim loại, khai thác sắt, chế biến đường từ củ cải đường và công nghiệp gạch. Hành chính. Từ năm 1809, tỉnh này bao gồm năm huyện (uyezd): Kherson, Aleksandria, Ovidiopol, Tiraspol và Yelisavetgrad. Thành phố Odessa mang một vị thế đặc biệt. Năm 1825, huyện Odessa và năm 1834, huyện Ananyev được bổ sung vào bộ phận lãnh thổ của tỉnh Kherson. Huyện thứ bảy là Bobrynets tồn tại từ năm 1828 đến năm 1865. Các thành phố Odessa và Nikolayev (năm 1803–1861) và vùng lân cận được quản lý riêng: Odessa do một gradonachalnik (tiếng Nga: градоначальник) chịu trách nhiệm trực tiếp trước sa hoàng và (từ năm 1822) trước Toàn quyền Novorossiya và Bessarabia, còn Nikolayev do một thống đốc quân sự quản lý. Năm 1920, dưới sự cai trị của những người Bolshevik, lãnh thổ của tỉnh này rộng 70.600 km² được chia tách để thành lập tỉnh Odessa mới. Tỉnh Kherson còn lại được đổi tên thành tỉnh Mykolaiv (Nikolayev) vào năm 1921, và năm 1922 được sáp nhập với tỉnh Odessa. Năm 1925, tỉnh Odessa bị bãi bỏ và lãnh thổ của nó được chia thành sáu okruha: Kherson, Kryvyi Rih, Mykolaiv, Odessa, Pershotravneve và Zinoviivske. Nhân khẩu. Cho đến năm 1858, một phần ba dân số (người định cư quân sự, khu định cư đô đốc, thực dân nước ngoài, v.v.) phải tuân theo thiết quân luật. Tỉnh có dân số khoảng 245.000 người vào năm 1812; 893.000 vào năm 1851; 1.330.000 vào năm 1863; 2.027.000 vào năm 1885; 2.733.600 vào năm 1897; và 3.744.600 vào năm 1914. Trong những năm 1850, tỉnh bao gồm người Ukraina (68–75 %), người Romania (8–11 %), người Nga (3–7 %), người Do Thái (6 %), người Đức (4 %), người Bulgaria (2 %), người Ba Lan, người Hy Lạp, và người Digan. Năm 1914, người Ukraina chỉ chiếm 53% dân số, trong khi người Nga chiếm 22% và người Do Thái là 12%. Cư dân thành thị chiếm 10 đến 20% dân số cho đến những năm 1850, sau đó tỷ lệ cư dân thành thị tăng lên, lên khoảng 30% vào năm 1897. Di cư trong Đế quốc Nga chủ yếu góp phần vào sự gia tăng dân số của khu vực, với 46% dân số sinh ra bên ngoài tỉnh vào năm 1897. Theo Điều tra nhân khẩu của Đế quốc Nga vào ngày 28 tháng 1 [15 tháng 1 lịch cũ] 1897, tỉnh Kherson có dân số 2.733.612, bao gồm 1.400.981 nam và 1.332.631 nữ. Phần lớn dân số xem tiếng Tiểu Nga tức tiếng Ukraina là tiếng mẹ đẻ của họ, với các nhóm thiểu số đáng kể nói tiếng Nga, tiếng Do Thái, tiếng Romania và tiếng Đức.
7,904,831
19,808,487
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808487
Nguyễn Khải Khang
Nguyễn Khải Khang(?-1558) là tướng nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, từng phục vụ cho cuộc chiến tranh Lê-Mạc. Sự nghiệp. Làm tướng nhà Mạc. Năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ hai của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Nguyễn Khải Khang cùng Lê Bá Ly đứng về phía Mạc Kính Điển đánh bại được Tử Nghi. Khi Lê Bá Ly bị các tướng Sơn Tây Anh Duệ hầu, Phù Long hầu và Văn Giáp hầu hợp binh đánh, ông sai thủ hạ là Đông Khang hầu đi cứu viện. Các cánh quân Sơn Tây bại trận phải rút lui. Năm 1549, do công phò tá Mạc Phúc Nguyên, ông được phong làm thái úy Đoan quốc công, được cho họ Mạc. Phù Lê diệt Mạc. Năm 1552, sau khi Lê Bá Ly bỏ nhà Mạc vào nam, Nguyễn Khải Khang cùng cháu Nguyễn Hữu Liêu cũng đem quân về hàng Lê ở Yên Trường, vua Lê là Lê Trung Tông úy lạo, ban thưởng, vẫn cho giữ chức tước như cũ. Tháng 8 năm 1555, Mạc Kính Điển sai Thọ quận công đem hơn 100 chiếc thuyền làm tiên phong, tiến đến cửa biển Thần Phù đóng dinh. Hôm sau, Kính Điển đem quân đến hội ở sông Đại Lại, sai Thọ quận công đốc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi Kim Sơn. Trịnh Kiểm sai Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng mai phục sẵn ở phía nam sông, còn Trịnh Kiểm đích thân đốc suất đại quân mai phục ở phía bắc sông, chọn 50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn; sai Phạm Đốc đem thủy quân cùng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm cứ mạn thượng lưu từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi. Trưa hôm sau, thuyền quân Mạc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung. Trịnh Kiểm lệnh các đạo quân mai phục đổ ra đánh. Quân Mạc thua chạy. Thọ quận công nhảy xuống sông trốn, bị tướng Lê là Vũ Sư Thước bắt sống và sau đó bị chém. Quân Mạc bị bắt rất nhiều, quân Lê thu được nhiều khí giới. Mạc Kính Điển rút quân quay về kinh thành. Cái chết và khen thưởng. Tháng 8 năm 1557, các tướng lĩnh từng bỏ Mạc sang Lê là anh em Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn bỏ trốn về hàng nhà Mạc. Riêng Nguyễn Khải Khang và Lê Khắc Thận không về. Tháng 9 năm 1558, Trịnh Kiểm lại ra quân đánh Sơn Nam chiếm đất rồi để Nguyễn Khải Khang ở lại trấn thủ để chiêu tập nhân dân. Mạc Ngọc Liễn là cháu của Khải Khang sai thổ dân ở Mỹ Lương trá hàng ông để dụ, rồi lừa bắt Khải Khang mang về. Mạc Tuyên Tông sai dùng hình xé xác Khải Khang. Vua Lê nghe tin vậy truy tặng ông cho tước Hiến Trung Công và bổ dùng cháu nội họ ông là Nguyễn Hữu Liêu.
7,904,845
19,808,501
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808501
Elisabeth Ludovika của Bayern
Elisabeth Ludovika của Bayern (tiếng Đức: "Elisabeth Ludovika von Bayern"; 13 tháng 11 năm 1801 – 14 tháng 12 năm 1873) là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden và là Vương hậu nước Phổ với tư cách là vợ của Friedrich Wilhelm IV của Phổ. Thiếu thời. Elisabeth Ludovika sinh ra ở München, là con gái của Maximilian I Joseph của Bayern và Karoline xứ Baden cũng như là chị em song sinh của Amalie Auguste, Vương hậu Sachsen, chị gái của Sophie Friederike, Đại vương công phu nhân Áo, mẹ của Hoàng đế Franz Joseph I của Áo và Hoàng đế Maximiliano I của México và Ludovika Wilhelmine, Công tước phu nhân tại Bayern, mẹ của Elisabeth, Hoàng hậu Áo, cũng như con đỡ đầu và cùng tên với Elisabeth. Trong gia đình, Elisabeth Ludovika được gọi là Elise. Thái tử phi. Ngày 29 tháng 11 năm 1823, Elisabeth Ludovika kết hôn với Thái tử Friedrich William (sau này là Friedrich Wilhelm IV của Phổ) và ủng hộ những sở thích trí tuệ của Friedrich, cụ thể là những nỗ lực của chồng đối với tác phẩm nghệ thuật mà Friedrich Wilhelm vô cùng yêu quý. Elisabeth Ludovika từ chối trở thành một tín hữu Kháng Cách như một điều kiện trong thỏa thuận hôn nhân và nhấn mạnh rằng sẽ chỉ cải đạo nếu bản thân bị thuyết phục về giá trị của đức tin Kháng Cavh1 sau khi tự mình tìm hiểu. Vào ngày 5 tháng 5 năm 1830, bảy năm sau khi kết hôn, Elisabeth chính thức cải sang Kháng Cách. Cuộc hôn nhân của Ludovika và chồng được nhìn nhận là hạnh phúc thế nhưng sau một lần sảy thai vào năm 1828, Elisabeth Ludovika không thể có con nữa. Vương hậu nước Phổ. Elisabeth Ludovika trở thành Vương hậu nước Phổ vào năm 1840. Kể từ thời điểm này, Vương hậu không bao giờ mất đi ảnh hưởng đến chính trị Phổ, và tích cực duy trì tình hữu nghị thân thiết giữa Phổ và Đế quốc Áo. Đối với Friedrich William IV, Elisabeth Ludovika là một người vợ mẫu mực và trong suốt thời gian dài chồng lâm bệnh, Elisabeth chăm sóc chồng như một y tá tận tụy. Ban đầu, Elisabeth Ludovika có thái độ thù địch với người vợ xuất thân từ nước Anh của cháu trai mình là Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất, thường được biết đến trong gia đình với cái tên Vicky, nhưng mối quan hệ của họ trở nên ấm áp hơn khi Vicky chăm sóc và an ủi Elisabeth trong những ngày đầu đau khổ khi lâm vào cảnh góa bụa. Elisabeth Ludovika cũng không bao giờ quên lòng tốt của Vicky và trong di chúc của mình, Elisabeth đã phá lệ khi để lại cho Vicky những món trang sức của mình. Theo truyền thống, những món đồ trang sức này phải được để lại cho Vương hậu hiện tại là Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach, em dâu của Elisabeth, lúc đó là Vương hậu Phổ và Hoàng hậu Đức); đây là một hành vi làm mích lòng Augusta mà Augusta sẽ không bao giờ tha thứ cho Vicky. Góa phụ Vương hậu. Sau cái chết của chồng vào ngày 2 tháng 1 năm 1861, Elisabeth sống lặng lẽ ở Sanssouci, Charlottenburg và Lâu đài Stolzenfels, cống hiến hết mình cho việc từ thiện để tưởng nhớ người chồng quá cố. Em chồng của Elisabeth, Hoàng đế Wilhelm I của Đức, coi chị dâu mình là một người bạn thực sự. Trong chuyến thăm em gái là Amalie Auguste, Vương hậu Sachsen năm 1873, Elisabeth Ludovika đã qua đời tại Dresden . Thái hậu Elisabeth được chôn cất bên cạnh chồng vào ngày 21 tháng 12 tại Friedenskirche ở Potsdam.
7,904,850
19,808,541
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808541
Novorossiya (tỉnh)
Tỉnh Novorossiya (; ), là một tỉnh của Đế quốc Nga tại các lãnh thổ từng thuộc Ottoman và người Cossack, tồn tại từ năm 1764 cho đến cải cách hành chính năm 1783. Tỉnh được tạo ra và quản lý theo "Kế hoạch thuộc địa hóa tỉnh Tân Nga" do Thượng viện Nga ban hành. Tỉnh trở thành khu vực đầu tiên ở Nga được Yekaterina Đại đế cho phép nhận người Do Thái nước ngoài định cư. Hầu hết các lãnh thổ của tỉnh từng thuộc về Sich Zaporozhia cũng như Trung đoàn Poltava và Trung đoàn Myrhorod của Quốc gia hetman Cossack. Việc thành lập tỉnh là thành công về mặt chiến lược và có lợi cho Nga. Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh của Nga chống lại Ottoman vào năm 1774, Nga mở được đường tiếp cận Biển Đen và thiết lập một khu vực được gọi là Novorossiya ("Tân Nga"). Tỉnh được tạo ra phỏng theo vùng Biên giới quân sự của Đế quốc Áo chống lại Đế quốc Ottoman, và có sự tham gia của nhiều đơn vị quân đội được tái định cư ở Ukraina. Năm 1796, tỉnh được tái lập, nhưng với trung tâm không phải ở Kremenchug mà ở Yekaterinoslav, và năm 1802 được chia thành ba tỉnh: Tỉnh Yekaterinoslav, tỉnh Taurida, tỉnh Nikolayev (được gọi là tỉnh Kherson từ năm 1803). Lịch sử. Tỉnh được thành lập vào ngày 2 tháng 4 [22 tháng 3 lịch cũ] năm 1764 với tư cách là một quân khu để bảo vệ biên giới phía nam của đế quốc và để chuẩn bị cho chiến dịch quân sự lớn trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ. Tỉnh thống nhất các lãnh thổ của Tân Serbia, Slavo-Serbia và Trung đoàn Slobidskyi (ngày nay ở tỉnh Kirovohrad) là các khu vực phía bắc của Buhohard Palatinate (Sich Zaporizhia). Tỉnh tập trung ở pháo đài Thánh Elizaveta, ban đầu được chia thành ba lãnh thổ (polki) được gắn với mỗi trung đoàn trong khu vực: Trung đoàn giáo mác Thành phố Elizabeth, Trung đoàn kỵ binh Hussar Đen và Trung đoàn kỵ binh Hussar Vàng. Kể từ ngày 22 tháng 6 [11 tháng 6 lịch cũ] 1764, tỉnh này cũng bao gồm cái gọi là Phòng tuyến Ukraina, một tuyến gồm các pháo đài do Nga xây dựng nằm giữa sông Dnepr và sông Donets, được quản lý bởi các trung đoàn giáo mác Dnepr và Donets (dựa theo Pandur của Habsburg, người Cossack của Poltava, các trung đoàn Myrhorod), Slavo-Serbia với Trung đoàn giáo mác Lugansk, và các trung đoàn kỵ binh Hussar Raiko Preradovic và Ivan Sevic (ngay sau đó hai trung đoàn này được hợp nhất thành Trung đoàn kỵ binh Hussar Bakhmut) cũng như Trung đoàn kỵ binh Hussar Samara (ban đầu là Trung đoàn kỵ binh Moldavia có trụ sở tại Kiev). Thủ phủ đầu tiên của tỉnh là thành phố Kremenchug (1765) với pháo đài Thánh Elizaveta (ngày nay là Kropyvnytskyi) phục vụ chức năng hành chính trước đó (1764). Vào năm 1769–70 trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, đã có một cuộc nổi dậy trong các trung đoàn quân giáo mác Dnepr và Donets. Tình trạng bất ổn bắt đầu trên lãnh thổ của tỉnh Poltava ngày nay và cuối cùng lan rộng khắp các vùng đất của Quân đoàn Zaporizhia. Cuộc nổi dậy bị các lực lượng Đế quốc Nga trấn áp không thương tiếc và những kẻ chủ mưu bị trừng phạt bằng knout (roi da) hoặc bị đưa đến katorga (trại lao động). Trung đoàn quân giáo mác Donets cuối cùng bị buộc phải tham chiến với Ottoman, nơi họ đóng vai trò quan trọng trong việc chiếm Syvash, lấy Perekop, Caffa (Feodosiya). Vào tháng 6 năm 1775, Quân đội Đế quốc Nga đã san bằng thủ đô của Sich Zaporizhia, sau đó tất cả các vùng đất của nó được sáp nhập vào tỉnh Novorossiysk. Năm sau, các vùng Bakhmut và Yekaterina được chuyển giao cho tỉnh Azov mới thành lập. Hành chính. Tỉnh Novorossiya được chia thành 12 tỉnh cấp hai (circuluses) và chia tiếp thành các huyện (uyezd). Thành phố Yekaterinoslav (nay là Novomoskovsk) nằm tại tỉnh Azov. Thành phố Yekaterinoslav (nay là Dnipro) nằm tại tỉnh Novorossiya. Danh sách tỉnh cấp hai (circuluses): Thành lập lần hai. Vào tháng 12 năm 1796, Pavel I cho tái lập tỉnh Novorossiya, chủ yếu từ đất đai của Phó vương quốc Yekaterinoslav trước đây. Năm 1802, tỉnh này được chia thành tỉnh Nikolayev (được gọi là tỉnh Kherson từ năm 1803), tỉnh Yekaterinoslav và tỉnh Taurida. Nghị định ngày 12 tháng 12 năm 1796 thiết lập chế độ nông nô trên lãnh thổ Nam Ukraina và Kavkaz bằng cách gắn nông dân với đất đai. Tổng tỉnh Novorossiysk và Bessarabia được thành lập vào ngày 23 tháng 5 năm 1822, với trung tâm ở Odessa. Đơn vị này bao gồm các tỉnh Kherson, Yekaterinoslav và Taurida, cũng như chính quyền thành phố Odessa, Taganrog, Feodosiya và Kerch-Yenikalsky. Tuy nhiên, Công tước Richelieu, người được bổ nhiệm vào vị trí này vào năm 1805, vẫn được coi là thống đốc của Lãnh thổ Novorossiysk. Tổng tỉnh bị bãi bỏ vào năm 1874.
7,904,858
19,808,621
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808621
Aphareus furca
Aphareus furca là một loài cá biển thuộc chi "Aphareus" trong họ Cá hồng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801. Từ nguyên. Danh từ định danh "furca" trong tiếng Latinh có nghĩa là “cái nĩa”, hàm ý đề cập đến vây đuôi xẻ sâu của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "A. furca" có phân bố rộng rãi trên vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii và quần đảo Pitcairn, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Úc, Nouvelle-Calédonie và Tonga; xa hơn đến rìa Đông Thái Bình Dương là đảo Cocos. Loài này cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "A. furca" sống gần các rạn san hô gần bờ và trong vùng nước trong của đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 122 m, nhưng cũng có thể lên đến 302 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "A. furca" là 70 cm, nhưng thường bắt gặp với kích thước khoảng 25 cm. Loài này có kiểu hình đa dạng. Đầu và thân có thể là màu xanh lam óng, vây lưng và vây hậu môn màu vàng, còn các vây khác có màu trắng, vàng đến xám đậm. Nhiều cá thể có lưng và thân trên màu nâu tía, hai bên thân màu xanh xám, đầu và thân dưới ánh bạc, rìa nắp mang có viền đen, các vây màu trắng đến vàng nâu. Vài cá thể còn được ghi nhận là có màu vàng tươi trên đầu, có thể đây là những con đực đang trong mùa giao phối. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10–12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 71–74. Sinh thái. Thức ăn chủ yếu của "A. furca" là cá nhỏ, nhưng cũng ăn cả động vật giáp xác. Chúng sống đơn độc hoặc hợp thành những nhóm nhỏ, có tính tò mò và dễ tiếp cận. Thương mại. "A. furca" thường được bán tươi sống ở các chợ cá. "A. furca" cũng là một loài cá câu thể thao quan trọng ở Đông Phi. Sự suy giảm quần thể cục bộ đối với loài này đã được phát hiện ở Fiji và Philippines.
7,904,863
19,808,707
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808707
Tàu ngầm mang tên lửa hành trình
Cruise missile submarine hay Tàu ngầm mang tên lửa hành trình là loại tàu ngầm khả năng mang và phóng chủ yếu là tên lửa hành trình đối đất/đối hải (SLCM). Tên lửa sẽ giúp cải thiện đáng kể khả năng tác chiến của tàu ngầm đối với các mục tiêu mặt đất, dù sử dụng ngư lôi sẽ có tính bí mật cao hơn nhưng tên lửa hành trình lại có tầm bắn lớn hơn nhiều, và cũng như có khả năng giao chiến với nhiều loại mục tiêu nhờ được trang bị nhiều loại đầu dò khác nhau. Nhiều tàu ngầm mang tên lửa hành trình vẫn giữ lại các thiết kế giúp chúng có khả năng triển khai đầu đạn hạt nhân trên tên lửa hành trình, tuy nhiên chúng khác với tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo do những khác biệt về đặc tính vũ khí mà mỗi loại mang theo. Các tàu ngầm thiết kế ban đầu chỉ có thể phóng tên lửa đi khi nổi trên mặt nước, trong khi ở các lớp tàu ngầm thiết kế về sau, tàu ngầm có khả năng phóng tên lửa từ dưới mặt nước thông qua hệ thống phóng thẳng đứng (VLS). Nhiều loại tàu ngầm tấn công hiện đại có khả năng phóng tên lửa hành trình (và cả tên lửa chống hạm) từ các ống phóng ngư lôi của chúng, trong khi ở một số mẫu thiết kế được bổ sung thêm một số lượng nhỏ giếng phóng thẳng đứng, khiến vai trò của tàu ngầm tấn công truyền thống và tàu ngầm mang tên lửa hành trình có một chút giống nhau. Tuy nhiên, lớp tàu ngầm tấn công vẫn sử dụng ngư lôi là vũ khí chủ yếu và có thể thực hiện các nhiệm vụ đa nhiệm do tốc độ lớn hơn của chúng cũng như khả năng cơ động trong môi trường dưới nước, đối lập với tàu ngầm mang tên lửa hành trình thường lớn hơn, chậm hơn, và tập trung chủ yếu vào việc tung ra các đòn tấn công tầm xa. Theo ký hiệu của Hải quân Mỹ, tàu ngầm mang tên lửa hành trình được mang tên SSG và SSGN (đối với tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân) – "SS" chỉ tàu ngầm, "G" chỉ guided missile (tên lửa có điều khiển), và "N" chỉ tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Hải quân Mỹ. Tàu ngầm mang tên lửa hành trình của Hải quân Mỹ được phát triển đầu những năm 1950s để mang được tên lửa hành trình SSM-N-8 Regulus. Theo đó, chiếc đầu tiên được chuyển đổi từ tàu ngầm lớp Gato thời kỳ chiến tranh thế giới 2, , tàu này có hangar có thể chứa một cặp tên lửa hành trình Regulus. "Tunny" được sử dụng làm tàu thử nghiệm công nghệ phát triển cho các hệ thống tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm, trước khi chiếc tàu mang tên lửa thứ hai cũng được chuyển đổi là . Từ năm 1957 hai chiếc tàu ngầm này đã thực hiện các chuyến tuần tra răn đe hạt nhân lần đầu tiên. Sau đó, hai tàu ngầm cỡ lớn hơn thuộc được chế tạo, mỗi chiếc có khả năng mang theo 4 tên lửa, trong khi phiên bản tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân có khả năng mang theo 5 quả tên lửa. Từ 9/1959 đến tháng 7/1964, năm tàu ngầm này đã thực hiện tuần tra trên biển Thái Bình Dương, phối hợp với các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo lớp George Washington tuần tra bên biển Đại Tây Dương, cho đến khi các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo thay thế chúng. Hiện nay, Hải quân Mỹ đã tiến hành sửa bốn tàu ngầm thuộc lớp "Ohio" gồm: Ohio, Michigan, Florida, và Georgia sang vai trò tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa hành trình (SSGN). Việc chuyển đổi sẽ bao gồm lắp đặt các ống phóng thẳng đứng VLS với từ 22 đến 24 ống phóng tên lửa, mỗi giếng phóng tên lửa đạn đạo Trident sẽ được thay bằng bảy ống phóng tên lửa nhỏ hơn dành cho tên lửa hành trình Tomahawk. Hai giếng phóng còn lại sẽ được chuyển đổi để sử dụng cho lực lượng biệt kích. Mỗi tàu ngầm sau khi chuyển đổi sẽ có khả năng mang tới 154 tên lửa Tomahawk. Trong tương lai, tàu ngầm năng lượng hạt nhân lớp Virginia sẽ thay thế cho tàu ngầm lớp Ohio khi thiết kế của tàu ngầm Ohio đã không còn đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại. Ở phía bên kia địa cầu, Liên xô triển khai tàu ngầm mang tên lửa hành trình lớp Whiskey và Echo I được trang bị tên lửa hành trình P-5 Pyatyorka (SS-N-3 Shaddock) có khả năng mang đầu đạn hạt nhân từ cuối 1950s đến năm 1964, tương tự như lực lượng tàu ngầm mang tên lửa hành trình Regulus của Mỹ, cho đến khi vai trò tấn công chiến lược của chúng được đảm nhận bởi tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN). Cùng với các tàu ngầm Juliet và Echo II, chúng tiếp tục đảm nhận vai trò tàu ngầm mang tên lửa hành trình với biến thể tên lửa chống tàu P-5 đến thập niên 1990. Lớp "Echo I" là một ngoại lệ, chúng không có radar riêng để dẫn bắn cho tên lửa chống tàu và chỉ phục vụ như tàu ngầm hạt nhân tấn công (SSN) sau khi toàn bộ tên lửa hành trình đối đất bị loại bỏ. Khác xa với tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình SSGN, tàu ngầm tấn công (SS/SSN) của Hải quân Liên Xô có khả năng phóng nhiều loại tên lửa từ ống phóng ngư lôi, từ RK-55 cho đến họ tên lửa hành trình Kalibr. Các tàu ngầm có khả năng mang tên lửa hành trình sẽ được mang các ký hiệu đặc biệt so với lớp cùng loại. Ví dụ tàu ngầm "Victor III-Project 671RTM" được đổi thành "Project 671RTMK" (với chữ K là ký hiệu của Крылатая ракета; tên lửa hành trình). Do tiêu chuẩn đường kính ống phóng ngư lôi của tàu ngầm Nga là 533mm, các tàu ngầm hiện đại của Nga, kể cả tàu ngầm diesel Kilo và Lada đều có khả năng phóng tên lửa hành trình tầm xa từ ống phóng lôi mà không cần các thiết bị ống phóng đặc biệt nào cho tên lửa.
7,904,880
19,808,797
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808797
Hạt óc chó
Hạt óc chó hạt ăn được của tất cả loại cây thuộc chi "Juglans" (họ Juglandaceae), đặc biệt là cây óc chó Ba Tư hoặc quả óc chó Anh, "Juglans regia". Quả óc chó thường được ăn như một món ăn nhẹ, và cũng có thể được thêm vào các bữa ăn nấu chín, ngũ cốc và bánh mì. Không giống như một số loại thực phẩm khác được coi là "hạt" cho mục đích ẩm thực, chẳng hạn như đậu phộng, quả óc chó là loại hạt thực vật thực sự. Sau khi chín hoàn toàn, lớp vỏ được người ta loại bỏ và ăn phần nhân. Các loại hạt của quả óc chó đen phía đông (Juglans nigra) và quả bơ (Juglans cinerea) ít được tiêu thụ hơn. Sử dụng làm thực phẩm. Thịt quả óc chó có hai dạng: còn vỏ hoặc đã tách vỏ. Do quá trình chế biến, thịt có thể còn nguyên miếng, giảm một nửa hoặc từng phần nhỏ hơn. Tất cả quảócchó có thể được ăn riêng (sống, nướng hoặc ngâm) hoặc là một phần của hỗn hợp chẳng hạn như muesli, hoặc như một thành phần của món ăn: ví dụ: súp hạt óc chó, bánh óc chó, bánh cà phê óc chó, bánh chuối, bánh hạnh nhân, kẹo mềm. Quả óc chó thường được làm kẹo hoặc ngâm chua. Quả óc chó ngâm cả quả có thể mặn hoặc ngọt tùy thuộc vào dung dịch bảo quản. Quả óc chó có thể được sử dụng như một thành phần trong thực phẩm khác. Quả óc chó là một thành phần quan trọng trong baklava, gà Circassia, gà sốt quả óc chó, và gia cầm hoặc thịt viên món hầm từ ẩm thực Iran. Hạt óc chó cũng phổ biến như một lớp phủ kem lạnh, và các miếng quả óc chó được sử dụng như một trang trí trên một số loại thực phẩm. Nocino là rượu mùi được làm từ quả óc chó xanh chưa chín ngâm trong rượu có thêm xi-rô. Dầu hạt óc chó có sẵn trên thị trường và chủ yếu được sử dụng như một thành phần thực phẩm, đặc biệt là trong nước sốt sa lát. Nó có điểm khói thấp, giới hạn việc sử dụng nó cho chiên xào. Giá trị dinh dưỡng. Giá trị dinh dưỡng. Quả óc chó không vỏ có 4% nước, 15% protein, 65% chất béo và 14% carbohydrate, bao gồm 7% chất xơ ăn kiêng (bảng). Trong khẩu phần tham khảo 100 gam, quảócchó cung cấp và hàm lượng phong phú (20% trở lên của Giá trị hàng ngày hoặc DV) của một số khoáng chất ăn kiêng, đặc biệt là mangan ở mức 163% DV, và vitamin B (bảng). Mặc dù hạt óc chó Anh được tiêu thụ phổ biến nhất, nhưng mật độ và thành phần dinh dưỡng của chúng nhìn chung tương tự như hạt óc chó đen. Không giống như hầu hết các loại hạt có nhiều axit béo không bão hòa đơn, dầu óc chó bao gồm phần lớn axit béo không bão hòa đa (72% tổng lượng chất béo), đặc biệt là axit alpha-linolenic (14%) và axit linoleic (58%), mặc dù nó có chứa axit oleic chiếm 13% tổng lượng chất béo.
7,904,897
19,808,826
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19808826
Sò lông
Sò lông là tên thông dụng ở Việt Nam dùng để chỉ một số loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ sống ở biển thuộc họ Sò. Sò lông trưởng thành có chiều dài từ 48mm và chiều rộng từ 33mm. Hai mặt vỏ sò hình bầu dục và có kích thước không bằng nhau. Ngoài cùng của vỏ sò được bao phủ một lớp lông màu nâu. Chính vì thế mà nó được gọi là sò lông. Tạo Việt Nam, một số loài cùng được gọi tên thông dụng là sò lông như: Phân bổ. Sò lông phân bổ nhiều ở khu vực có khí hậu nhiệt đới như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và một số vùng biển khác có cả Việt Nam. Ở Việt Nam, sò lông phân bố và tập trung nhiều ở các tỉnh như Kiên Giang, Cà Mau... Sử dụng trong ẩm thực. Trong ẩm thực Việt Nam, sò lông thường bị nhầm lẫn với sò huyết về mặt ngoại hình. Tuy nhiên, cả hai loại đều được sử dùng khá phổ biến trong văn hóa ẩm thực. Trong các phân tích khoa học, giá trị dinh dưỡng của 2 loại gần tương đương nhau, tuy nhiên, trong ẩm thực, thịt sò huyết được đánh giá là ngon hơn, và vì vậy giá thành của chúng cũng cao hơn.
7,904,901
19,809,048
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809048
Chloridoideae
Chloridoideae là một trong những họ con lớn nhất của họ Cỏ, với khoảng 150 chi và 1.600 loài, chủ yếu được tìm thấy trong các đồng cỏ thảo nguyên nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Trong nhánh PACMAD, nhóm chị em của nó là Danthonioideae. Họ con này bao gồm các loài cỏ cỏ gian phổ biến như cỏ Bermuda ("Cynodon dactylon") hoặc cỏ xạ hương ("Eleusine indica"), nhưng cũng bao gồm các loài kê được trồng ở một số khu vực nhiệt đới, như kê ngón tay ("Eleusine coracana") và kê teff ("Eragrostis tef"). Trừ một số loài trong "Ellisochloa" và "Eleusine indica", hầu hết các loài trong họ con này sử dụng con đường quang hợp C4 trong quá trình quang hợp. Quá trình chuyển tiến hóa đầu tiên từ quang hợp C3 sang C4 trong cỏ có thể đã xảy ra trong họ con này, khoảng từ 32 đến 25 triệu năm trước trong kỷ Oligocene. Phát sinh chủng loại họ. Mối quan hệ giữa các tông trong Chloridoideae theo phân loại phát sinh chủng của năm 2017, cũng cho thấy Danthonioideae là nhóm chị em: Các chi sau chưa được gán vào một tộc nào:
7,904,937
19,809,071
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809071
Oryzoideae
Oryzoideae (đồng nghĩa với Ehrhartoideae) là một phân họ của họ cỏ thật sự họ Poaceae. Nó gồm khoảng 120 loài trong 19 chi, đặc biệt bao gồm loại ngũ cốc quan trọng lúa. Trong số các loài cỏ, phân họ này là một trong ba phân họ thuộc nhánh đa dạng về loài BOP, tất cả đều sử dụng quang hợp C3; nó là dòng gốc của nhánh. Nó chứa bốn bộ và một chi có vị trí không rõ ràng (incertae sedis): "Suddia" (được cho là thuộc bộ Phyllorachideae). Các phân tích phát sinh chủng loại đã xác định thứ tự phân nhánh của các nhóm phát sinh trong phân họ:
7,904,947
19,809,283
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809283
Gianluigi Sueva
Gianluigi Sueva (sinh ngày 1 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Olbia tại Serie C bảng B, cho mượn từ Cosenza. Sinh ra tại Ý, anh ta đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dominica. Sự nghiệp thi đấu. Câu lạc bộ. Cosenza. Sueva là sản phẩm của lò đào tạo trẻ Cosenza và được đôn lên đội 1 vào năm 2017. Anh ra mắt cho Cosenza vào ngày 3 tháng 10 năm 2020 trong trận gặp SPAL tại Serie B, khi vào sân thay cho Angelo Corsi ở phút thứ 71. Cho mượn tại Potenza. Ngày 27 tháng 1 năm 2022, anh chuyển tới Potenza tại Serie C theo dạng cho mượn. Cho mượn tại Olbia. Ngày 1 tháng 8 năm 2022, Sueva chuyển tới Olbia theo dạng cho mượn. Quốc tế. Ngày 23 tháng 2 năm 2021, Sueva có tên trong danh sách sơ bộ của đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Cộng hòa Dominica chuẩn bị cho Giải vô địch vòng loại Olympic khu vực CONCACAF 2020. Tuy nhiên, anh không có tên trong danh sách chính thức, vì anh cũng được gọi triệu tập lên đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dominica chuẩn bị cho 2 trận Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp Dominica và Anguilla, vào ngày 24 và 27 tháng 3 năm 2021. Đời tư. Sueva được sinh ra tại Ý, có bố là người Ý và mẹ là người Dominica.
7,904,999
19,809,467
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809467
Nguyễn Hữu Mười
Nguyễn Hữu Mười (sinh năm 1957) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên điện ảnh người Việt Nam, ông được biết đến với các vai ông giáo Thứ trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" và thầy giáo Khang trong phim "Bao giờ cho đến tháng Mười". Tiểu sử. Nguyễn Hữu Mười sinh ngày 9 tháng 9 năm 1957 tại huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình có 11 anh chị em, không có ai theo nghệ thuật. Sự nghiệp. Năm 1974, trong lần cùng bạn đi mua vé xem kịch khi Đoàn kịch Trung ương về biểu diễn, Hữu Mười thấy bảng thông báo tuyển diễn viên, điều khiến ông quyết định viết đơn ứng tuyên là thí sinh sẽ được chụp ba kiểu ảnh, bởi việc được chụp hình là điều không dễ dàng lúc bấy giờ. Lá đơn của ông khi đó chỉ vỏn vẹn 6 dòng và suýt bị đuổi về vì cẩu thả và phải viết lại. Diên viên Phi Nga là người nhận ra tố chất diễn viên bên trong Hữu Mười, vượt qua vòng sơ tuyển, ông ra Hà Nội dự thi chung tuyển. Khi tốt nghiệp ông là một trong 16 sinh viên trong lớp diễn viên khóa hai trường Điện ảnh Việt Nam cùng với các nghệ sĩ Bùi Cường, Minh Châu, Phương Thanh, Bùi Bài Bình, Quốc Trọng, Thanh Quý, Đào Bá Sơn... Tốt nghiệp lớp diễn viên 1977, nghệ sĩ Hữu Mười về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Thời gian đầu ông thường hóa thân vào những vai thứ chính. Các bộ phim ông tham gia trong những năm đầu sự nghiệp như "Khôn dại, Ngày ấy ở sông Lam, Phương án ba bông hồng". Năm 1982, Hữu Mười có được vai diễn để đời đầu tiên vào vai thầy giáo Thứ, nhân vật phỉnh theo nhà văn Nam Cao, trong phim "Làng Vũ Đại ngày ấy". Năm 1984, Đạo diễn Đặng Nhật Minh đưa đến cho ông kịch bane phim ông "Bao giờ cho đến tháng Mười", vị đạo diễn quán triệt trước rằng không cho ông đóng vai thầy giáo giáo Khang vì lĩnh vực điện ảnh kị việc lặp lại trong diễn xuất. Sau đó vì không tìm được diễn viên phù hợp, Đặng Nhật Minh lại chọn Hữu Mười cho vai thầy giáo Khang, vai diễn giúp ông có được giải Nam diễn viên chính xuất sắc tại Liên hoan Phim Việt Nam lần thứ 7. Năm 1987, Hữu Mười được Bộ Văn hóa cử đi học sang Liên Xô theo học ngành đạo diễn tại Trường Đại học Điện ảnh quốc gia Matxcova (VGIK) theo Hiệp định hợp tác Văn hoá - Giáo dục giữa hai nước. Năm 1993, Hữu Mười tốt nghiệp và trở lại Hãng phim Truyện Việt Nam công tác. Năm 1996, ông được đạo diễn Đặng Nhật Minh mời làm phó đạo diễn cho bôn phim "Hà Nội mùa đông năm 46." Năm 1999, Nguyễn Hữu Mười mới có bộ phim điện ảnh đầu tiên do ông đạo diễn là "Chiếc hộp gia bảo", tiếp theo đó là các phim điện ảnh truyền hình cho các chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam. Bộ phim "7 ngày làm vợ" do ông đạo diễn từng được đề cử hạng mục Phim truyền hình ngắn tập của Giải Cánh diều 2004. Hữu Mười bắt đầu tham gia công tác giảng dạy từ năm 2003, ông từng nhậm chức trưởng Khoa truyền hình, trường Đại học sân khấu Điện ảnh Hà Nội. Năm 2011, Nguyễn Hữu Mười mạnh dạn nhận đạo diễn bộ phim chiến tranh "Mùi cỏ cháy", sau khi kịch bản phim bị nhiều đạo diễn khác từ chối vì kinh phí cho phim quá eo hẹp. Bộ phim sau đó chiến thắng 4 giải trong hạng mục phim truyện điện ảnh tại giải Cánh diều 2011 trong đó có giải quan trọng nhất, Cánh Diều Vàng cho phim truyện điện ảnh. Mùi cỏ cháy cũng chiến thằng hạng mục phim điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 với giải Bông sen Bạc và Biên kịch xuất sắc. Gia đình. Nguyễn Hữu Mười và vợ kết hôn khi họ đang du học bên Liên Xô, họ có hai người con.
7,905,034
19,809,492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809492
Charlotte Thérèse của Monaco
Charlotte Thérèse của Monaco ("Charlotte Thérèse Nathalie Grimaldi"; 19 tháng 3 năm 1719 – 1790) là Thân vương nữ của Monaco và là một nữ tu Công giáo. Tiểu sử. Thân vương nữ Charlotte Thérèse sinh ngày 19 tháng 3 năm 1719 tại Dinh thự Matignon ở Paris. Charlotte là con gái đầu lòng của Louise Hippolyte I của Monaco với Jacques I của Monaco. Năm 1724, Charlotte đính hôn với Frédéric Jules de La Tour d'Auvergne, tuy nhiên hôn ước bị hủy bỏ và Charlotte không bao giờ kết hôn. Ngày 21 tháng 1 năm 1738, Charlotte tuyên hứa đời sống tu trì và trở thành một nữ tu tại Tu viện Thăm viếng. Đã có ghi nhận Charlotte đã rời khỏi tu viện vài lần để thăm gia đình. Thân vương nữ Charlotte Thérèse qua đời năm 1790.
7,905,046
19,809,836
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809836
Shaun Dimech
Shaun Dimech (sinh ngày 8 tháng 8 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá người Malta hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Valletta F.C. và Đội tuyển bóng đá quốc gia Malta. Sự nghiệp thi đấu quốc tế. Dimech ra mắt quốc tế cho Malta vào ngày 7 tháng 10 năm 2020, trong trận giao hữu gặp Gibraltar.
7,905,092
19,809,843
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19809843
Giải vô địch bóng đá U-19 nữ Đông Nam Á 2023
Giải vô địch bóng đá U-19 nữ Đông Nam Á 2023 () là mùa giải thứ 3 của Giải vô địch bóng đá U-19 nữ Đông Nam Á được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF) tại Indonesia. Các đội tham dự. Giải đấu không có vòng loại, tất cả đều được tham dự vòng chung kết. Các đội bóng thành viên của Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á dưới đây đều tham dự giải đấu. Địa điểm. Các trận đấu sẽ diễn ra tại Thành phố Thể thao Jakabaring, với 2 sân vận động là Sân vận động Gelora Sriwijaya và Sân vận động Jakabaring. Vòng bảng. Đội đứng đầu mỗi bảng và đội xếp thứ hai có thành tích tốt nhất giành quyền vào bán kết. Thứ hạng trong mỗi bảng sẽ được xác định như sau: Thứ hạng trong mỗi bảng sẽ được xác định như sau: Tất cả trận đấu diễn ra theo giờ địa phương WIB (UTC+7) Xếp hạng các đội đứng thứ hai. Đội có thành tích tốt nhất sẽ giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp. Do số đội các bảng khác nhau, kết quả thi đấu với mỗi đội xếp thứ tư trong bảng không được tính. Vòng đấu loại trực tiếp. Trong vòng đấu loại trực tiếp, hiệp phụ và loạt sút luân lưu sẽ được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết. Vào ngày 10 tháng 7, Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á hay AFF đã làm rõ về việc bốc thăm vòng bán kết, dẫn đến việc đội tuyển quốc gia Indonesia sẽ đấu với Thái Lan thay vì ở bán kết. Theo điều kiện, nếu đội nhì bảng có thành tích tốt nhất đến từ Bảng A hoặc Bảng C, thì đội nhì bảng có thành tích tốt nhất sẽ đi tiếp vào bán kết gặp đội nhất Bảng B nên đã điều chỉnh bốc thăm như sau. Sơ đồ. <section begin=Bracket /><section end=Bracket />
7,905,095
19,810,033
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810033
Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Afghanistan
Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Afghanistan là đội do Liên đoàn bóng đá Afghanistan quản lý và đại diện cho Afghanistan ở các giải đấu thuộc lứa tuổi U-17. Đội đã từng 1 lần vượt qua vòng loại Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á 2012, nhưng đã bị truất quyền tham dự do có một cầu thủ trong đội hình của họ không đủ điều kiện để thi đấu ở Vòng loại Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á 2012.
7,905,141
19,810,388
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810388
Lãnh thổ phụ thuộc Quần đảo Falkland
Các lãnh thổ phụ thuộc Quần đảo Falkland (tiếng Anh: Falkland Islands Dependencies) là một vùng lãnh thổ phụ thuộc được sắp xếp theo thỏa thuận từ năm 1843 cho đến năm 1985 để quản lý các lãnh thổ khác nhau của Anh ở Cận Nam Cực và Nam Cực được quản lý từ quần đảo Falkland và thủ phủ của nó là Port Stanley. Các lãnh thổ. Sau đây là các lãnh thổ của Anh tạo nên các Lãnh thổ phụ thuộc Quần đảo Falkland trong giai đoạn từ 1917 đến 1962. Năm 1962, Lãnh thổ Nam Cực thuộc Anh được thành lập theo Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực. Nó ảnh hưởng đến việc tuyên bố chủ quyền độc lập tại các lãnh thổ ở phía nam vĩ độ 60° Nam, ngoại Nam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich vẫn là các Lãnh thổ phụ thuộc Quần đảo Falkland từ năm 1962 đến 1985. Lịch sử. Các thỏa thuận lần đầu tiên được ban hành theo quyết định ("Letters patent") của Anh năm 1843, và sau đó được sửa đổi vào các năm 1876, 1892, 1908, 1917 và 1962. Vì lý do thuận tiện, trên thực tế, các Lãnh thổ phụ thuộc được quản lý bởi Anh thông qua Chính phủ Quần đảo Falkland. Tuy nhiên, chúng tạo thành một thực thể tách biệt với Quần đảo Falkland về mặt chính trị hoặc tài chính. Các lãnh thổ cấu thành các Lãnh thổ phụ thuộc của Quần đảo Falkland vào năm 1908 được liệt kê trong quyết định của Anh là "các nhóm đảo gồm Nam Georgia, Nam Orkney, Nam Shetland và Quần đảo Sandwich, và lãnh thổ gồm Graham Land, nằm ở Nam Đại Tây Dương, về phía nam của vĩ tuyến 50 vĩ độ nam và nằm giữa 20 và 80 độ kinh độ tây". Năm 1917, quyết định đã được sửa đổi, áp dụng "nguyên tắc ngành" được sử dụng ở Bắc Cực. Phạm vi mới của Lãnh thổ phụ thuộc được mở rộng để bao gồm "tất cả các đảo và lãnh thổ nằm giữa vĩ độ 20 của kinh độ tây và 50 độ kinh độ tây về phía nam của vĩ tuyến 50 vĩ độ nam; và tất cả các hòn đảo và vùng lãnh thổ nằm giữa vĩ độ 50 của kinh độ tây và 80 độ kinh độ tây nằm ở phía nam của vĩ tuyến 58 của vĩ độ nam", từ đó mở rộng đến Nam Cực. Với việc Vương quốc Anh gia nhập Cộng đồng châu Âu vào năm 1973, các Lãnh thổ phụ thuộc của Quần đảo Falkland trở thành một trong các lãnh thổ đặc biệt của EU theo Hiệp ước Roma, và được tất cả các hiệp ước EU sau đó tiếp tục duy trì. Tình trạng liên kết đó hiện bao gồm các lãnh thổ kế tục của Lãnh thổ phụ thuộc: Nam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich và Lãnh thổ Nam Cực thuộc Anh. Chế độ pháp lý quốc tế mới được đưa ra cho lãnh thổ Nam Cực ở phía nam của vĩ độ 60° nam theo Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực năm 1961 đã khiến Anh tách phần lãnh thổ trong Hiệp ước ra khỏi Lãnh thổ phụ thuộc. Điều đó đã được thực hiện theo Lệnh của Hội đồng năm 1962 về thành lập Lãnh thổ Nam Cực thuộc Anh, chỉ để lại trong các Lãnh thổ phụ thuộc các nhóm đảo Nam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich, bao gồm Đá Shag và Đá Clerke. Giải thể. Năm 1985, các Lãnh thổ phụ thuộc trở thành các Lãnh thổ hải ngoại riêng biệt của Anh gồm Lãnh thổ Nam Cực thuộc Anh, Quần đảo Falkland, Nam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich.
7,905,212
19,810,565
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810565
Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 - Đôi nam xe lăn
Alfie Hewett và Gordon Reid là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Martín de la Puente và Gustavo Fernández trong trận chung kết, 7–6(11–9), 7–5.
7,905,245
19,810,677
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810677
Giải Bông Sen cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
Giải Bông Sen cho nữ diễn viên phụ xuất sắc là một hạng mục trong hệ thống Giải thưởng của Liên hoan phim Việt Nam. Đây là hạng mục dành cho các diễn viên đóng vai nữ phụ trong các tác phẩm thuộc thể loại phim điện ảnh (trước đây gọi là phim nhựa). So với Giải Cánh Diều của Hội Điện ảnh Việt Nam, giải Bông Sen Vàng có tính chính thống hơn khi sử dụng để xét duyệt danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân và Nghệ sĩ ưu tú. Đối với tiêu chuẩn 2 Bông Sen vàng quy định là thành tích nghệ thuật để xem xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú: cá nhân nghệ sĩ phải có 1 Bông Sen vàng chính thức, chỉ được quy đổi 1 Bông Sen vàng từ các giải Vàng khác. Theo quy định, một giải Cánh Diều vàng chỉ được quy đổi bằng 1/2 Bông Sen vàng. Danh sách diễn viên thắng giải theo năm. Giải thưởng nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất phim truyện điện ảnh được trao lần đầu vào năm 2001 của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13 được tổ chức tại thành phố Vinh.
7,905,275
19,810,784
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810784
Charles Pickel
Charles Pickel (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sự nghiệp thi đấu. FC Basel. Pickel bắt đầu sự nghiệp bóng đá trẻ của mình với FC Solothurn. Vào mùa hè năm 2011, anh chuyển đến đội trẻ của FC Basel và chơi ở đội U-16 của họ và được đôn lên đội U-17 và U-18 của họ, rồi lên đội U-21 của họ vào năm 2015. Vào ngày 23 tháng 12 năm 2015, anh ấy đã ký hợp đồng chuyên nghiệp 2,5 năm với câu lạc bộ, nhưng vẫn ở lại đội U-21. Ngày 16 tháng 5 năm 2016, Pickel được đôn lên đội 1 bởi huấn luyện viên Urs Fischer. Anh ra mắt đội 1 tại Giải vô địch bóng đá quốc gia Thụy Sĩ, trong trận gặp Luzern, nhưng Basel đã phải hứng chịu trận thua đậm 0-4. Basel vô địch Giải vô địch bóng đá quốc gia Thụy Sĩ vào cuối mùa giải 2015–16. Đối với câu lạc bộ, đó là danh hiệu thứ 7 liên tiếp và là danh hiệu thứ 19 của họ trong lịch sử.<ref name="SRF-2015/16-19. Title"></ref> Pickel đã dứt khoát gia nhập đội một của Basel cho mùa giải 2016–17 dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Urs Fischer. Mặc dù anh đã xuất hiện trong 10 trận đấu thử nghiệm, nhưng anh chỉ chơi một trận đấu tại Giải vô địch bóng đá quốc gia Thụy Sĩ nữa, trong trận đấu trên sân nhà St. Jakob-Park vào ngày 4 tháng 2 năm 2017 khi Basel thắng 4–0 trước Lugano.<ref name="fcb-achiv-2016/17-FCB-Lugano"></ref> Basel thông báo rằng vào ngày 1 tháng 3, Pickel sẽ rời câu lạc bộ. Với đội U-21, Pickel đã chơi 38 bàn, ghi được 3 bàn. Trong thời gian ngắn thi đấu cho đội một của Basel, Pickel đã chơi tổng cộng 13 trận mà không ghi được bàn nào. 3 trong số các trận đấu này thuộc Giải vô địch bóng đá quốc gia Thụy Sĩ và 10 trận là giao hữu. Grasshopper Club. Vào ngày 1 tháng 3 năm 2017, Basel thông báo rằng Pickel đã gia nhập câu lạc bộ Grasshopper Club. GC thông báo rằng anh đã ký bản hợp đồng kéo dài 4,5 năm với đội bóng. Pickel ra mắt đội bóng vào ngày 5 tháng 3 năm 2017 trên sân vận động Swissporarena, trong trận hòa 1-1 trước Luzern. Grenoble. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2019, Grasshopper Club Zürich thông báo rằng Pickel đã gia nhập câu lạc bộ Grenoble tại Ligue 2. Cremonese. Ngày 22 tháng 7 năm 2022, có thông báo rằng Pickel đã gia nhập tân binh của Serie A, Cremonese. Sự nghiệp quốc tế. Sinh ra tại Thụy Sĩ, Pickel là người gốc Cộng hoà dân chủ Congo. Pickel thi đấu 1 trận đấu quốc tế cho đội tuyển U-15 Thụy Sĩ. Anh ra mắt cho U-18 Thụy Sĩ vào ngày 2 tháng 9 năm 2014, trong trận hòa 2–2 trước U-18 Thụy Điển. Anh ra mắt cho đội tuyển U-19 Thụy Sĩ vào ngày 1 tháng 9 năm 2015, trong trận hòa 1–1 trước U-19 Bồ Đào Nha. Trận đấu cuối cùng của anh cho đội tuyển U-20 Thụy Sĩ là vào ngày 27 tháng 3 năm 2018, trong chiến thắng 3-2 trước U-20 Ý. Danh hiệu. FC Basel
7,905,292
19,810,820
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810820
Chủ nghĩa hiện đại Hanshinkan
nhận dạng nghệ thuật, văn hóa và lối sống kiểu hiện đại phát triển từ khu vực ở Nhật Bản tập trung chủ yếu vào chùm đô thị Hanshinkan giữa Osaka và Kobe, khu vực có địa hình lý tưởng giữa Dãy Rokkō và biển (các quận Nada và Higashi Nada, Ashiya, Takarazuka, Nishinomiya, Itami, Amagasaki, Sanda và Kawanishi) từ thập niên 1900 đến thập niên 1930. Cùng với quá trình ngoại ô hóa của khu vực Vịnh Osaka vẫn tiếp tục phát triển sau năm 1923, trái ngược với khu vực Vịnh Tokyo mà quá trình đô thị hóa tạm thời bị đình chỉ do trận động đất lớn Kantō, phạm vi văn hóa của chủ nghĩa hiện đại Hanshinkan lan rộng đến Ikeda, Minoh và Toyonaka ở tỉnh Osaka, và các quận Suma và Tarumi của Kobe. Chủ nghĩa này là một khái niệm về lịch sử văn hóa khu vực từng được sử dụng trong các tác phẩm như "Lifestyle and Urban Culture: Hanshinkan Modernism Light and Shadow" Nó đã trở thành chủ đề nghiên cứu cho sự ra đời của các hiện tượng văn hóa ở khu vực này liên quan đến quá trình 77 năm hiện đại hóa của Nhật Bản trước chiến tranh từ thời Minh Trị Duy tân cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai, ngoại trừ quá trình tái thiết sau chiến tranh, kỳ tích kinh tế nhanh chóng, nền kinh tế bong bóng và sự xuất hiện của nước Nhật đương đại thời hậu chiến. Sau chiến tranh Nhật–Thanh (1894–1895), Osaka trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất của Nhật Bản, và Kobe phát triển thành thành phố cảng lớn nhất ở Phương Đông. Tuy nhiên, do sự mở rộng công nghiệp của cả hai thành phố đã khiến điều kiện sống ở khu vực thành thị ngày càng xấu đi. Ảnh hưởng của chủ nghĩa này có thể được nhìn thấy trong công trình xây dựng đương đại ở vùng Kantō trong các cơ sở nghỉ dưỡng kiểu phương Tây và các khu nhà nghỉ dưỡng cao cấp như Karuizawa, và các khu dân cư ngoại ô Tokyo như Den-en-chōfu.
7,905,299
19,810,874
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810874
Quan Thục Di
Quan Thục Di (, tiếng Anh: Shirley Kwan, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1966) là một ca sĩ nổi tiếng trong dòng nhạc cantopop của Hồng Kông thập niên 90 thế kỷ 20. Sự nghiệp của bà gắn liền với các ca khúc nổi tiếng như "Happy Are Those in Love", "Bản tình ca mùa đông", "Tình như lá bay xa". Năm 2020, Quan Thục Di tuyên bố giải nghệ, kết thúc 30 năm sự nghiệp ca hát của mình.
7,905,307
19,810,918
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19810918
Ștefan Preda
Ștefan Gabriel Preda (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1970) là một cựu cầu thủ bóng đá người România đã từng thi đấu ở vị trí thủ môn. Sự nghiệp quốc tế. Preda đã từng ra sân 3 lần cho Đội tuyển bóng đá quốc gia România, và có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1994, tổ chức tại Hoa Kỳ.
7,905,320
19,811,149
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811149
Libéma Open 2023
Libéma Open 2023 là một giải quần vợt chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời tại ở Rosmalen, 's-Hertogenbosch, Hà Lan từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 6 năm 2023. Đây là lần thứ 32 giải Rosmalen Grass Court Championships được tổ chức và là một phần của ATP 250 trong ATP Tour 2023 và WTA 250 trong WTA Tour 2023. Nội dung đơn ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Nội dung đơn WTA. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi WTA. Vận động viên khác. Đặc cách:
7,905,383
19,811,177
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811177
Libéma Open 2023 - Đôi nữ
Shuko Aoyama và Ena Shibahara là nhà vô địch, đánh bại Viktória Hrunčáková và Tereza Mihalíková trong trận chung kết, 6–3, 6–3. Ellen Perez và Tamara Zidanšek là đương kim vô địch, nhưng Zidanšek chọn không tham dự. Perez đánh cặp với Nicole Melichar-Martinez, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Greet Minnen và Yanina Wickmayer.
7,905,399
19,811,191
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811191
Xã Vũ Lăng
Xã Vũ Lăng có thể là một trong số các địa danh sau đây:
7,905,406
19,811,287
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811287
Huyết thống luận
Huyết thống luận (), là lý thuyết chính trị phổ biến từ Hồng vệ binh phái bảo thủ trong giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. Theo huyết thống luận, yếu tố xác định địa vị giai cấp của một người là địa vị giai cấp của gia đình họ. Điều này được thể hiện bằng đôi câu đối huyết thống “cha cách mạng con anh hùng, cha phản động con khốn nạn”. Mặc dù luận điểm này bị mất uy tín về mặt chính trị nhưng nó vẫn tiếp tục để lại tác động chính trị trong Cách mạng Văn hóa. Định nghĩa. Theo huyết thống luận, yếu tố xác định địa vị giai cấp của một người là địa vị giai cấp của gia đình họ. Bất kể vị thế hiện tại của một người, họ không thể được coi là một trong những người cách mạng trừ khi xuất thân gia đình của họ là bần nông hoặc trung nông, vô sản hoặc binh lính và thay vào đó sẽ bị cho là một trong cái gọi là năm loại đen. Trong một số trường hợp, các tiêu chí để trở thành thành viên của Hồng vệ binh chính xác đến mức vì mục đích của huyết thống luận, thân thế gia đình sẽ bắt nguồn từ ông bà hoặc họ hàng xa. Bản chất của lý thuyết này được tóm tắt bằng khẩu hiệu "cha cách mạng con anh hùng, cha phản động con khốn nạn". Các hoán vị khác của câu đối huyết thống này bao gồm cụm từ, "về cơ bản là như thế này" hoặc cụm từ "chính xác là như thế này", gợi ý rằng những người ủng hộ thuyết huyết thống có thể không đồng ý về trọng lượng mà nó nên có. Phát triển và phủ nhận. Trong thời kỳ sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thành lập phải giải quyết việc xây dựng chính quyền, chuẩn mực và trật tự xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ xây dựng nhà nước này liên quan đến câu hỏi ai là người lãnh đạo tiếp theo ở đâu và tìm đâu ra (tức là trong các gia đình đã có các nhà lãnh đạo cách mạng, hoặc trong giới trẻ). Trong những trường hợp bình thường, chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc là các cá nhân không nên bị đánh giá chỉ dựa trên lý lịch giai cấp gia đình mà phải dựa trên thành tích chính trị của họ. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, các câu hỏi về di sản hay kế thừa đã lên đến đỉnh điểm, với một số con cái của cán bộ cấp cao đã chỉ trích việc nhấn mạnh vào hiệu suất chính trị như một phần trong "đường lối giai cấp xét lại" của Bành Chân. Huyết thống luận bắt đầu ở các trường trung học và lan rộng từ đó đến các trường đại học. Cuối tháng 7 năm 1966, các biến thể của câu đối huyết thống này bắt đầu xuất hiện giữa các nhóm Hồng vệ binh, với một số nhóm sinh viên khác nhau tuyên bố đã tạo ra nó. Theo quan điểm của những Hồng vệ binh đầu tiên này (còn gọi là "Cựu Hồng vệ binh"), nguồn gốc giai cấp là tiêu chí quan trọng nhất để trở thành thành viên của nhóm. Theo thứ tự địa vị giảm dần, đó là: (1) con quan chức quân đội, (2) con cán bộ nhà nước, (3) con nhà thuộc tầng lớp lao động, và (4) con nhà nông dân. Bất kỳ ai không thuộc "gốc gác đỏ" sẽ bị loại trừ và những người có "dòng máu thuần khiết nhất" vẫn được xem xét theo thứ bậc. Câu đối huyết thống đã gây ra tranh cãi lớn. Ngay sau khi nó xuất hiện, các cuộc tranh luận nổ ra chủ yếu trong hàng ngũ sinh viên Hồng vệ binh về cách diễn giải nguyên tắc này. Huyết thống luận ban đầu được phổ biến rộng rãi trong giới hoạt động xã hội sinh viên trong Cách mạng Văn hóa, nhưng sau bị phe theo tư tưởng Mao Trạch Đông chỉ trích mạnh mẽ. Sự phản đối kịch liệt của công chúng đối với huyết thống luận bắt đầu vào cuối năm 1966. Trần Bá Đạt là nhà lãnh đạo phe chủ nghĩa Mao đầu tiên đã lên tiếng chỉ trích câu đối huyết thống, nói rằng, "Một lý thuyết về 'thân thế đỏ' đã trở nên phổ biến gần đây. Những người thúc đẩy ngụy biện này thực sự đã tấn công và gạt con cái của công nhân và nông dân ra ngoài lề... Họ làm cho một số sinh viên bối rối và khuyến khích họ trình bày câu đối, 'Nếu cha là anh hùng thì con cũng là anh hùng'". Giang Thanh gây tiếng vang khi đảo ngược khẩu hiệu của huyết thống luận, và biện minh rằng nếu cha mẹ là nhà cách mạng thì con cái nên noi gương họ, nhưng cha mẹ phản động thì con cái đều là kẻ phản động. Năm 1966, học sinh trung học Ngộ La Khắc đã dám viết một cuốn sách nhỏ nổi tiếng có nhan đề "Xuất thân luận", đóng một vai trò quan trọng trong việc làm mất uy tín của huyết thống luận. Diễn giải tiếp theo. Theo quan điểm của học giả Alessandro Russo, huyết thống luận là một hình thức của "chủ nghĩa giai cấp sinh học" và "thủ đoạn về hệ tư tưởng" cuối cùng đã thất bại vì mức độ tham gia chính trị rộng rãi trong giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa. Russo viết rằng ngay cả sau khi lý thuyết này bị mất uy tín về mặt chính trị, nó vẫn tiếp tục để lại tác động trong Cách mạng Văn hóa. Nhà sử học Rebecca Karl nhận xét rằng huyết thống luận có "tác động kỳ lạ là khiến đại đa số các nhà cách mạng cũ nghi ngờ. Xét cho cùng, hạt nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thập niên 1920 và 1930 đều là thanh niên thành thị, có học thức cùng với một số con cháu gia đình địa chủ hoặc phú nông (ví dụ, bản thân Mao Trạch Đông)".
7,905,432
19,811,369
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811369
Vinh Tân (định hướng)
Vinh Tân có thể là:
7,905,455
19,811,371
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811371
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Việt Nam)
Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường là cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo phân cấp, uỷ quyền của Bộ trưởng. Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường được thành lập trên cơ sở hợp nhất Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản và Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường được quy định tại Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhiệm vụ và quyền hạn. Theo Điều 2, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường có các nhiệm vụ, quyền hạn trong các lĩnh vực chính: 1. Trình Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: a) Các dự thảo: luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị định, nghị quyết của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản pháp luật khác về quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản theo phân công của Bộ; b) Chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách và các chương trình, dự án, đề án về quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản theo phân công của Bộ trưởng. 2. Xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp luật; kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn, hàng năm; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật; tiêu chuẩn quốc gia về quản lý chuyên ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Cục theo phân công của Bộ trưởng và quy định của pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành. 3. Ban hành các văn bản cá biệt và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc phạm vi quản lý của Cục. 4. Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Cục. 5. Quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và chất lượng, an toàn thực phẩm (ATTP): a) Tham mưu phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án về chất lượng, an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý của Bộ; b) Tham mưu tổng hợp, báo cáo giải trình trước Quốc hội và Chính phủ; tổng hợp báo cáo tổng thể về công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản; tham gia các tổ chức liên ngành, tổ chức quốc tế về chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản theo phân công của Bộ trưởng; c) Tham mưu xây dựng, sửa đổi, bổ sung danh mục sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn (sản phẩm, hàng hóa nhóm 2) thuộc phạm vi quản lý của Bộ; d) Chủ trì tổ chức triển khai các nhiệm vụ thuộc chương trình phối hợp của Chính phủ, của Bộ với các tổ chức chính trị xã hội; của Bộ với các bộ, ngành, tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các hội, hiệp hội ngành hàng về chất lượng, an toàn thực phẩm nông lâm sản và thủy sản; đ) Tổ chức triển khai công tác phổ biến giáo dục chính sách pháp luật và thông tin truyền thông về chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản; e) Tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát, đánh giá, cảnh báo, xử lý, truyền thông và quản lý nguy cơ ATTP đối với thực phẩm nông lâm sản và thủy sản tiêu dùng trong nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; g) Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cán bộ chuyên trách của ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn về quản lý chất lượng, ATTP nông lâm sản và thủy sản theo quy định của pháp luật; h) Tham mưu Bộ phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng và phát triển chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm nông lâm sản và thủy sản thuộc lĩnh vực được giao và theo phân công của Bộ trưởng. 6. Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản: a) Tổ chức phổ biến, hướng dẫn, hỗ trợ cơ sở chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập nông lâm sản và thuỷ sản tuân thủ các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng, ghi nhãn hàng hoá sản phẩm nông lâm sản và thuỷ sản; b) Tổ chức kiểm tra, giám sát việc tuân thủ, áp dụng các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng, ghi nhãn, bao gói sản phẩm, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm nông lâm sản và thủy sản tại các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập; c) Tổ chức triển khai thực hiện kiểm tra, truy xuất nguồn gốc, xử lý vi phạm về chất lượng, ghi nhãn hàng hóa sản phẩm nông lâm sản và thủy sản đối với các cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập nông lâm sản và thủy sản. 7. Quản lý an toàn thực phẩm nông lâm sản và thủy sản: a) Tổ chức thực hiện, hướng dẫn thẩm định, chứng nhận đủ điều kiện ATTP; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về ATTP đối với: Cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc thực vật; Cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc động vật; Cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh sản phẩm thủy sản; Cơ sở sản xuất sản phẩm thực phẩm hỗn hợp, phối chế, gia vị; Cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc quản lý của 02 cơ quan thuộc Bộ trở lên; cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của 02 cơ quan quản lý chuyên ngành trở lên nhưng sản phẩm có sản lượng lớn nhất thuộc thẩm quyền của Bộ; Chợ đầu mối, chợ đấu giá, cơ sở kinh doanh thực phẩm nông lâm sản và thủy sản; Cơ sở sản xuất nước đá cho sản xuất, chế biến nông lâm sản và thủy sản; Cơ sở sản xuất kinh doanh dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm thuộc phạm vi quản lý theo quy định. b) Tổ chức thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra và cấp chứng nhận ATTP, an toàn dịch bệnh đối với thuỷ sản xuất khẩu, giấy chứng nhận lưu hành tự do, chứng nhận nguồn gốc, xuất xứ hoặc giấy chứng nhận khác có liên quan đối với thực phẩm thủy sản xuất khẩu theo quy định của pháp luật. c) Tổ chức thực hiện các chương trình giám sát quốc gia về ATTP xuất khẩu theo yêu cầu của nước nhập khẩu đối với thủy sản và sản phẩm thủy sản; cảnh báo, ngăn chặn và khắc phục sự cố ATTP; kiểm tra, giám sát việc thực hiện truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý được phân công và theo quy định của pháp luật; xử lý, tháo gỡ vướng mắc kỹ thuật về ATTP trong xuất nhập khẩu thủy sản và sản phẩm thủy sản. d) Công bố danh sách quốc gia, vùng lãnh thổ và danh sách các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm thủy sản được phép xuất khẩu vào Việt Nam theo thẩm quyền được quy định tại các Thỏa thuận hợp tác giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với Việt Nam. 8. Về quản lý hoạt động đánh giá sự phù hợp: a) Tham mưu phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị liên quan thuộc Bộ để xây dựng, trình phê duyệt mạng lưới cơ sở kiểm nghiệm kiểm chứng ATTP quốc gia; b) Thẩm định, đánh giá, cấp giấy đăng ký lĩnh vực hoạt động, chỉ định, công nhận và quản lý hoạt động của các phòng, đơn vị thử nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm chứng, tổ chức đánh giá sự phù hợp về chất lượng, an toàn thực phẩm, sản phẩm hàng hoá, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực thuỷ sản và thuộc quản lý của 02 cơ quan thuộc Bộ trở lên; c) Đánh giá chỉ định phòng kiểm nghiệm kiểm chứng về ATTP phục vụ quản lý nhà nước và yêu cầu của người dân, doanh nghiệp; kết luận cuối cùng khi có sự khác biệt về kết quả kiểm nghiệm ATTP giữa các cơ quan kiểm nghiệm thuộc lĩnh vực của Bộ quản lý; d) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với các phòng, đơn vị thử nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm chứng, tổ chức đánh giá sự phù hợp về chất lượng, an toàn thực phẩm, sản phẩm hàng hoá, quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật; đ) Công bố kết quả kiểm nghiệm an toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật; e) Đầu mối của Bộ phối hợp với cơ quan liên quan thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ về thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và thừa nhận lẫn nhau đối với kết quả đánh giá sự phù hợp. 9. Về bảo quản, chế biến, vận chuyển nông lâm sản và thủy sản: a) Hướng dẫn, kiểm tra thực hiện chiến lược, đề án, chương trình, cơ chế, chính sách phát triển lĩnh vực chế biến gắn với sản xuất và thị trường; hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch; b) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về điều kiện đối với cơ sở sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển hàng hóa nông lâm sản và thủy sản; c) Hướng dẫn, đánh giá, hỗ trợ nâng cao năng lực chế biến nông lâm sản và thủy sản; d) Tiếp nhận hồ sơ, xem xét công nhận hoặc hủy bỏ công nhận, phổ biến tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển thực phẩm nông lâm sản và thủy sản; đ) Tổng hợp báo cáo về tình hình sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển nông lâm sản và thủy sản thuộc phạm vi quản lý của Bộ; e) Triển khai các chương trình, đề án, dự án về thu gom, xử lý, sơ chế, chế biến phụ phẩm nông lâm sản và thủy sản dùng làm thực phẩm theo phân công, phân cấp của Bộ. 10. Về phát triển nông nghiệp hữu cơ: a) Tham mưu tổng hợp, phối hợp trình Bộ ban hành cơ chế, chính sách, chương trình, đề án, dự án phát triển nông nghiệp hữu cơ và bảo quản, chế biến, phát triển thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; b) Tham mưu tổng hợp báo cáo và hợp tác quốc tế trong phát triển nông nghiệp hữu cơ và bảo quản, chế biến, phát triển thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; c) Tổ chức phổ biến, tập huấn triển khai thực hiện chính sách, quy định pháp luật về phát triển nông nghiệp hữu cơ tại các công đoạn sơ chế, chế biến, bảo quản, kinh doanh độc lập nông lâm sản và thủy sản; d) Tổ chức kiểm tra, thanh tra tổ chức chứng nhận, cơ sở sơ chế, chế biến, kinh doanh và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ trong trường hợp cần thiết theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền. 11. Về phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản: a) Đàm phán kỹ thuật mở cửa thị trường: - Đầu mối tổng hợp báo cáo đề xuất công tác đàm phán kỹ thuật về ATTP mở cửa thị trường xuất, nhập khẩu nông lâm sản và thủy sản; - Trực tiếp tổ chức đàm phán kỹ thuật về ATTP mở cửa thị trường đối với thực phẩm thủy sản, sản phẩm phối chế. b) Phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản: - Tham mưu Bộ phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng chính sách, chiến lược, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, chương trình phát triển thương hiệu quốc gia và các chương trình phát triển thị trường khác có liên quan; - Tham mưu Bộ trình Chính phủ ban hành chương trình xúc tiến thương mại nông lâm sản và thủy sản, chương trình phát triển thương hiệu nông lâm sản và thủy sản chủ lực; - Tham mưu Bộ ban hành kế hoạch hàng năm về phát triển thương hiệu, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản; thực hiện các nhiệm vụ cơ quan thường trực Ban chỉ đạo phát triển thị trường nông lâm sản và thủy sản của Bộ; - Tổng hợp, đề xuất nghiên cứu nhu cầu, yêu cầu của các thị trường; tổ chức cập nhật, phổ biến cho các bên liên quan về quy định kỹ thuật, thông tin thị trường và thị hiếu tiêu dùng nông lâm thủy sản; - Tham mưu tổ chức thực hiện các nhiệm vụ xúc tiến thương mại, phát triển thị trường theo phân công của Bộ; - Quản lý dịch vụ tư vấn, hỗ trợ phát triển thương hiệu nông lâm sản và thủy sản. 12. Thực hiện nhiệm vụ quản lý đầu tư và xây dựng công trình theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng. Tham gia thẩm định các chương trình, dự án đầu tư chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của Cục. 13. Tổ chức thực hiện công tác thống kê; xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi quản lý của Cục. 14. Thực hiện công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực chất lượng, ATTP, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường thuộc phạm vi quản lý của Cục. 15. Tổ chức, phối hợp thực hiện nghiên cứu khoa học, thực hiện chuyển giao ứng dụng công nghệ, bảo vệ môi trường, trong lĩnh vực chất lượng, ATTP, bảo quản, chế biến và phát triển thị trường theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng. 16. Thực hiện hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế và các chương trình, dự án quốc tế theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng và quy định pháp luật. 17. Thực hiện cải cách hành chính theo chương trình, kế hoạch, đề án cải cách hành chính của Bộ và quy định của pháp luật. 18. Về quản lý tổ chức, hoạt động dịch vụ công: a) Trình Bộ cơ chế, chính sách về cung ứng dịch vụ công; thực hiện xã hội hoá các hoạt động cung ứng dịch vụ công; định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng và các quy định về dịch vụ sự nghiệp công thuộc phạm vi quản lý của Cục; b) Hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức thực hiện dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật. 19. Quản lý tổ chức bộ máy, danh mục vị trí việc làm, biên chế, cơ cấu ngạch công chức, hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng. Thực hiện chế độ, chính sách, thi đua, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đối với công chức, viên chức, người lao động theo theo quy định. 20. Hướng dẫn, kiểm tra đối với hoạt động của các hội, hiệp hội trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Cục; tham gia ý kiến về công nhận ban vận động thành lập hội và điều lệ hội thuộc chuyên ngành được giao quản lý theo quy định. 21. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật; tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng. 22. Quản lý tài chính, tài sản và các nguồn lực khác được giao; tổ chức quản lý việc thu, sử dụng phí, lệ phí thuộc phạm vi quản lý của Cục theo quy định của pháp luật. 23. Hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ đối với hệ thống chuyên ngành chất lượng, chế biến và phát triển thị trường hoặc đơn vị đầu mối phụ trách lĩnh vực quản lý chất lượng, chế biến và phát triển thị trường tại các địa phương. 24. Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và phân công của Bộ trưởng. Cơ cấu tổ chức. Các tổ chức tham mưu. "(Theo Khoản 2, Điều 3, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)" Các cơ quan trực thuộc. "(Theo Khoản 3, Điều 3, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)" Các đơn vị sự nghiệp công lập. "(Theo Khoản 4, Điều 3, Quyết định số 1588/QĐ-BNN-TCCB ngày 19/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)"
7,905,456
19,811,512
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811512
Công nghiệp đồ chơi tình dục tại Trung Quốc
Ngành công nghiệp đồ chơi tình dục tại Trung Quốc có giá trị lớn nhất thế giới, ước tính khoảng 2 tỷ USD cùng với khoảng 70% đồ chơi tình dục trên thế giới được sản xuất tại đây vào năm 2010. Theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Thị trường Trung Quốc, doanh thu từ ngành này từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2010 đạt 940 triệu USD. Báo cáo lưu ý các mặt hàng bán chạy nhất là các sản phẩm làm tăng hưng phấn tình dục, chẳng hạn như bao cao su kích thích, chiếm 21,5% thị trường. Mã Tiểu Niệm (马晓年), Phó giám đốc Hiệp hội Tình dục học Trung Quốc, nói rằng Trung Quốc đã phát triển đáng kể về mặt văn hóa tình dục kể từ khi mở cửa hàng tình dục đầu tiên ở Bắc Kinh vào năm 1993. Từ thời điểm mà các sản phẩm dành cho người lớn, bao gồm cả bao cao su, không được phép nhập khẩu vào Trung Quốc, ngành công nghiệp sản xuất đồ chơi tình dục ở Trung Quốc đã nhanh chóng phát triển trở thành "nhà máy" lớn nhất thế giới. Trung Quốc dẫn đầu thế giới về sản xuất thâm dụng lao động nói chung. Theo báo cáo của "Nhân Dân nhật báo", vào năm 2010, thị trường xuất khẩu lớn nhất là Cộng hòa Nam Phi (gần 20%), với Hàn Quốc và Nga là nhà nhập khẩu lớn thứ hai và thứ ba, và Hoa Kỳ chiếm 2% thị phần. Các báo cáo khác đã mô tả khối lượng xuất khẩu lớn hơn nhiều sang Hoa Kỳ và châu Âu. Hầu hết đồ chơi tình dục xuất khẩu được sản xuất tại các nhà máy ở Quảng Đông và Chiết Giang. Hội chợ thương mại. Hội chợ thương mại công nghiệp người lớn được tổ chức hàng năm tại Quảng Châu, Vũ Hán, Ma Cao, Phúc Kiến, Bắc Kinh và Thượng Hải. Tại Thượng Hải, Triển lãm Đồ chơi Người lớn và Sức khỏe Sinh sản Quốc tế Trung Quốc ("China International Adult Toys and Reproductive Health Exhibition"), thường được gọi là Triển lãm Chăm sóc Người lớn Trung Quốc, được tổ chức hàng năm tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế Thượng Hải. Tại Triển lãm năm 2004, đã có hơn 4.000 người tham gia và hơn 80.000 khách tham quan. Triển lãm năm 2005 là triển lãm lớn nhất của loại hình này ở châu Á và là một trong ba triển lãm hàng đầu về đồ chơi tình dục trên thế giới, cùng với VENUS ở Berlin, Đức và "AVN Adult Entertainment Expo" ở Las Vegas, Hoa Kỳ. Khoảng 180 nhà triển lãm từ tám quốc gia và khu vực, chẳng hạn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thụy Điển và Hồng Kông, đã tham gia Triển lãm Đồ chơi Người lớn và Sức khỏe Sinh sản Quốc tế Trung Quốc lần thứ 5, được tổ chức vào năm 2008. Có hơn 30.000 khách tham quan trong Triển lãm năm 2008. Triển lãm Chăm sóc Người lớn Trung Quốc do Tập đoàn Trung tâm Triển lãm Quốc tế Trung Quốc tổ chức. Ma Cao đã tổ chức Triển lãm Người lớn Châu Á từ năm 2008.
7,905,493
19,811,520
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811520
Tàu điện ngầm Busan tuyến 3
Tàu điện ngầm Busan tuyến số 3 là tuyến Tàu điện ngầm Busan kết nối Ga Suyeong ở Gwangan-dong, Suyeong-gu và Ga Daejeo ở Daejeo-dong, Gangseo-gu, Busan, Hàn Quốc. Màu của tuyến là ● Màu nâu vàng nhạt, và giống như Tàu điện ngầm Seoul tuyến 8, đây là tuyến ngắn nhất trong số các tuyến Tàu điện ngầm Busan. Theo Pháp lệnh xây dựng đường sắt đô thị Busan được thi hành trước đó, Tuyến Asiad được viết cùng nhau, nhưng tên tuyến Asiad Line đã bị xóa do sắc lệnh bị bãi bỏ. Ban đầu cũng có mục đích chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 và Đại hội Thể thao châu Á 2002, nhưng do khủng hoảng kinh tế của IMF, do các vấn đề về đảm bảo nguồn tài chính như thiếu hụt ngân sách nên đã không thực hiện được.
7,905,495
19,811,566
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811566
Nguyên thủ Cộng hoà Karachay-Cherkessia
Nguyên thủ Cộng hoà Karachay-Cherkessia (Tiếng Kabardia: Къэрэшей-Шэрджэс Республикэм и Тхьэмадэ, Qereshey-Sherjes Respublikem i Tkh'emade; Tiếng Karachay-Balkar: Къарачай-Черкес Республиканы Башчысы, Qarachay-Cherkes Respublikany Bashchysy) - trước tháng 4 năm 2011 thì vị trí mang tên là Tổng thống Cộng hoà Karachay-Cherkessia - là người đứng đầu của Cộng hoà Karachay-Cherkessia, một trong những nước cộng hoà thuộc Nga. Lịch sử. Sau khi vùng tự quản Karachay-Cherkessia được tái thành lập vào năm 1957 và nằm trong vùng lãnh thổ Stavropol thuộc Liên Xô. Vai trò lãnh đạo vùng được giao cho Uỷ ban vùng Lãnh thổ Karachay-Cherkessia (cho đến mùa xuân 1990), tuy nhiên quyền lực thực tế lại nghiên về Uỷ ban của vùng lãnh thổ Stavropol. Từ năm 1988 đến năm 1991, Valentin Lesnichenko trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của Uỷ ban vùng. Từ tháng 3 năm 1990, điều 6 Hiến pháp Liên Xô bị bãi bỏ, gây ra sự suy yếu quyền lực nghiêm trọng với hệ thống độc đảng đang tồn tại ở Liên Xô. Các uỷ ban vùng bắt đầu hoạt động với vai trò là một nghị viện cộng hoà và hệ quả là các tổng bí thư của các Uỷ ban vùng trở thành người đứng đầu các "nghị viện" của vùng. Ngày 22 tháng 3 năm 1990, Lesnichenko trở thành người đứng đầu của Hội đồng Đại biểu Nhân dân, một chức vụ mới được chọn vào tháng 3 cùng năm. Vào cùng ngày, Vladimir Khubiyev được tái lựa chọn làm Chủ tịch Ban Chấp hành vùng. Ngày 30 tháng 9 năm 1990, phiên họp Hội đồng Đại biểu Nhân dân Karachay-Cherkessia quyết định tách khỏi vùng ra khỏi vùng lãnh thổ Stavropol và trở thành một nước Cộng hoà Xô viết Xã hội chủ nghĩa trực thuộc Liên Xô. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1991, quyết định này đã được Xô viết Tối cao Liên Xô phê chuẩn. Tuy nhiên, theo điều 104 của Hiến pháp Liên Xô, các vấn đề về cơ cấu nhà nước-quốc gia của Liên bang Nga thuộc thẩm quyền đơn nhất của Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô. Vào ngày 3 tháng 12 năm 1991, Hội đồng Đại biểu Nhân dân ra quyết định tái thành lập Cộng hoà Karachay. Tuy nhiên đến ngày 5, Hội đồng lại ra quyết định bỏ phiều thăm dò về sự tồn tại của Cộng hoà Karachay-Cherkessia. Vào ngày 13 tháng 1 năm 1992, Tổng thống Liên bang Nga, ông Boris Yeltsin, theo thỏa thuận với Hội đồng Nhân dân, đã bổ nhiệm Khubiyev làm quyền người đứng đầu chính quyền của Karachay-Cherkess trong một thời gian cho đến khi bầu cử Xô Viết Tối cao của Karachay-Cherkess được diễn ra . Vào tháng 1 năm 1993, Hội đồng Đại biểu khu vực cũ được chuyển thành Hội đồng tối cao và Hội đồng Bộ trưởng được thành lập, Khubiev một lần nữa được bầu làm chủ tịch cho đến tận năm 1999. Vào tháng 4-tháng 5 năm 1999, cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên ở Karachay-Cherkessia đã diễn ra. Ở vòng thứ hai, cựu Tổng tư lệnh Lực lượng Mặt đất Vladimir Semyonov đã đắc cử. Ông nhận được 75% phiếu bầu so với 18% cho Derev, nhưng phe đối lập không công nhận kết quả và kiện họ tại các tòa án các cấp trong vòng sáu tháng. Năm 2004, các cuộc bầu cử trực tiếp người đứng đầu các khu vực ở Nga đã bị hủy bỏ theo sáng kiến ​​của Tổng thống Nga Vladimir Putin. Ngày 11 tháng 12 năm 2004, Putin đã đưa ra dự luật mới: Người đứng đầu khu vực, theo đề xuất của Tổng thống Liên bang Nga, được quốc hội khu vực họp kín để phê chuẩn. Người đứng đầu nhà nước cũng có quyền cách chức người đứng đầu các khu vực "liên quan đến việc mất niềm tin của Tổng thống Liên bang Nga, do thực hiện không đúng nhiệm vụ của họ, cũng như trong các trường hợp khác được quy định bởi luật liên bang . Năm 2013, Tổng thống Liên bang Nga đã ký ban hành luật cho phép các chủ thể liên bang lựa chọn giữa việc bầu cử trực tiếp và bầu cử quốc hội theo ba ứng cử viên được tổng thống lựa chọn từ đề xuất theo phía Hội đồng vùng. Ở Karachay-Cherkessia, Hội đồng thống nhất lựa chọn phương án thứ hai. Vì vậy, vào tháng 12 năm 2013, Hiến pháp của Cộng hòa Karachay-Cherkessia đã được sửa đổi, theo đó việc bầu cử trực tiếp người đứng đầu nước cộng hòa được thay thế bằng thủ tục bổ nhiệm thông qua đề xuất tổng thống Nga qua quá trình bầu cử đại biểu quốc hội.
7,905,503
19,811,681
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811681
Cyriel Dessers
Cyriel Kolawole Dessers (sinh ngày 8 tháng 12 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Rangers tại Scottish Premiership. Sinh ra tại Bỉ, anh chơi cho đội tuyển Nigeria. Sự nghiệp thi đấu. OH Leuven. Trong mùa giải 2013–14, Dessers khi đó 19 tuổi nổi bật trong các giải dự bị và trẻ cho OH Leuven, ghi hơn 20 bàn thắng. Với việc OHL có nguy cơ xuống hạng và một số tiền đạo của đội một mất phong độ, chấn thương hoặc bị treo giò, anh ã có những phút thi đấu đầu tiên ở đội một trong trận thua 3–2 trước Mons. Lokeren và NAC Breda. Vào tháng 4 năm 2014, Dessers đã ký hợp đồng kéo dài 2 năm với Lokeren. Tháng 7 năm 2016, anh ký hợp đồng với NAC Breda có thời hạn đến mùa hè năm 2019 tại Eerste divisie. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2017, họ được thăng hạng lên Eredivisie, sau chiến thắng 4-1 trước NEC, trong đó Dessers lập một cú hat-trick. Anh kết thúc mùa giải với 29 bàn sau 40 lần ra sân. FC Utrecht. Tháng 7 năm 2017, Dessers chuyển tới FC Utrecht, khi đồng ý một hợp đồng trong ba năm với một tùy chọn gia hạn một năm. Ngày 11 tháng 8 năm 2017, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại giải đấu cho đội bóng. Sau khi mùa giải Eredivisie 2019–20 bị hủy, Dessers cùng Steven Berghuis giành danh hiệu vua phá lưới, với mỗi người 15 bàn thắng. Genk và cho mượn tại Feyenoord. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2020, Dessers chuyển tới Genk theo một thỏa thuận kéo dài 4 năm. Ngày 31 tháng 8 năm 2021, Dessers quay trở về Hà Lan để gia nhập Feyenoord theo dạng cho mượn với một quyền chọn mua. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 19 tháng 9, ghi bàn thắng thứ tư cho Feyenoord trong chiến thắng 4–0 trước PSV. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2022, Feyenoord thông báo rằng họ đã chọn không thực hiện tùy chọn mua hợp đồng của Dessers. Cremonese. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2022, Dessers ký hợp đồng với câu lạc bộ Cremonese tại Serie A. Rangers. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2023, Dessers gia nhập câu lạc bộ Rangers tại Scottish Premiership với một mức phí chuyển nhượng khoảng 4,5 triệu bảng Anh. Sự nghiệp quốc tế. Sinh ra ở Bỉ, với cha là người Bỉ và mẹ là người Nigeria, Dessers đã chọn đại diện cho Nigeria ở cấp độ quốc tế vào tháng 12 năm 2019. Vào ngày 4 tháng 3 năm 2020, anh được huấn luyện viên trưởng Gernot Rohr gọi vào thành phần cầu thủ của đội tham dự các trận đấu vòng loại Cúp bóng đá châu Phi gặp Sierra Leone. Dessers ra mắt trong trận hòa 1-1 trước Tunisia vào ngày 13 tháng 10 năm 2020. Danh hiệu. Genk Feyenoord Cá nhân
7,905,538
19,811,867
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19811867
Elena Rybakina
Elena Andreyevna Rybakina (sinh ngày 17 tháng 6 năm 1999) là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Kazakhstan gốc Nga. Cô là tay vợt Kazakhstan đầu tiên vô địch Grand Slam (tại Wimbledon 2022). Cô có thứ hạng đánh đơn cao nhất là vị trí số 3 thế giới trên bảng xếp hạng của Hiệp hội Quần vợt Nữ (WTA). Rybakina cũng đã vào 13 trận chung kết tại các giải đấu khác ở WTA Tour, giành bốn danh hiệu, trong đó có hai danh hiệu WTA 1000 tại Indian Wells Open 2023 và Internazionali BNL d'Italia 2023.
7,905,602
19,812,015
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812015
Động đất ngoài khơi Ibaraki 2011
xảy ra vào lúc 15:15 (theo giờ địa phương), ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có cường độ 7.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 43 km, nằm ngay trên ngoài khơi tỉnh Ibaraki. Theo Cục Khí tượng Nhật Bản, đây là trận động đất có dư chấn lớn nhất trong Động đất và sóng thần Tōhoku 2011. Các cảnh báo nguy cơ sóng thần lớn tiếp tục đưa ra.
7,905,641
19,812,070
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812070
Đại Việt địa dư toàn biên
Đại Việt địa dư toàn biên (大越地輿全編) là cuốn sách cổ về địa lý học lịch sử Việt Nam. Sách gồm 5 quyển, do Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ biên tập, Nguyễn Trọng Hợp viết tựa, khắc in lần đầu năm 1900. Tác giả. Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) hiệu là Phương Đình, đỗ Phó bảng năm 1838. Ông làm quan ở Hàn Lâm viện và một số nơi khác, tới năm 1854 thì về hưu. Ông dạy học và soạn sách ở quê nhà Thanh Trì, Hà Nội. Bùi Quỹ (1796-1861) tự là Hữu Trúc, quê Hưng Yên. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1829 và được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu. Sau đó ông còn trải nhiều chức quan khác nhau. Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) cùng quê với Nguyễn Văn Siêu và viết tựa cho sách. Ông là quan Phụ chính đại thần, trải bảy đời vua từ Tự Đức đến Thành Thái. Nội dung. Sách gồm 5 quyển, trong đó quyển 1, 2, 4 do Nguyễn Văn Siêu soạn; còn quyển 3, 5 do Bùi Quỹ soạn. Quyển 1 - Ngã Việt phương dư tiền biên, có thể chia làm 3 phần chính: Quyển 2 - Tiền Lê chánh biên (từ nhà Lê Sơ trở về trước), gồm 2 phần chính: Quyển 3 - Đại Nam phương dư chính biên phần 1 Quyển 4 - gồm 2 phần chính: Quyển 5 - Đại Nam phương dư chính biên phần 2 Xuất bản. Theo lời tựa của Nguyễn Trọng Hợp thì Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ cùng soạn chung sách bằng chữ Hán (viết tay). Mãi tới năm 1882, khi cả hai ông đều đã mất, các học trò của Nguyễn Văn Siêu mới đem khắc ván in. Nhưng khi đó Pháp bắt đầu gây hấn Bắc Kỳ nên công việc dang dở, tới năm 1900 mới hoàn thành. Bản dịch chữ quốc ngữ đầu tiên có tên là Phương Đình dư địa chí do Ngô Mạnh Nghinh dịch, Nhà xuất bản Tự do ấn hành năm 1959 tại Sài Gòn. Bản này viết sai tên là Nguyễn Siêu (một trong 12 sứ quân). Bản dịch phổ biến hiện nay có tên Đại Việt địa dư toàn biên do Viện Sử học dịch, Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1997 đề tên Nguyễn Văn Siêu.
7,905,657
19,812,094
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812094
Tuyến Tím (Bangkok)
Tuyến MRT Tím () hoặc Tuyến MRT Chalong Ratchatham () là tuyến tàu điện ngầm thứ năm của Băng Cốc trước đó là Tuyến Sukhumvit, Tuyến Silom, Tuyến MRT Xanh Dương, và Tuyến đường sắt sân bay. Tuyến dài , phục vụ khu vực Tây-Bắc Băng Cốc từ Tao Poon đến Klong Bang Phai tại tỉnh Nonthaburi. Tuyến mở cửa vào ngày 6 tháng 8 năm 2016. Nó là tuyến thứ hai thuộc hệ thống MRT và được quản lý bởi BEM. Lượt khách mỗi ngày là 70.000. Đoạn dài 23,63 km bao gồm 17 mở rộng về phía Nam của tuyến bao gồm 14,3 km đi ngầm dưới đất và 9,3 km trên cao khởi công vào tháng 8 năm 2022. Tổng kinh phí cho đoạn mở rộng là $82 tỉ baht và dự kiến mở cửa vào cuối năm 2027. Đến cuối tháng 5 năm 2023, tổng khối lượng công việc hoàn thành là 11,50%.
7,905,665
19,812,123
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812123
Porsche Tennis Grand Prix 2023
Porsche Tennis Grand Prix 2023 là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân đất nện trong nhà tại Porsche Arena ở Stuttgart, Đức, từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 4 năm 2023. Đây là lần thứ 45 giải Porsche Tennis Grand Prix được tổ chức và là một phần của WTA 500 trong WTA Tour 2023. Nội dung đơn. Vận động viên khác. Đặc cách: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi. Vận động viên khác. Đặc cách: Thay thế:
7,905,671
19,812,141
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812141
Chanikarn Tangkabodee
Chanikarn Tangkabodee (tiếng Thái: ชนิกานต์ ตังคบดี, sinh ngày 20 tháng 2 năm 2004) còn được biết đến với nghệ danh Prim (พริม), là một nữ diễn viên người Thái Lan gốc Hoa. Cô được biết đến nhiều nhất qua các tác phẩm như "", (2021–2022), và "Enigma" (2023). Tiểu sử và học vấn. Prim sinh ra ở Băng Cốc, Thái Lan và là người gốc Hoa. Cô đã gia nhập làng giải trí từ khi còn nhỏ, xuất hiện trong một số quảng cáo. Năm 2022, Prim tốt nghiệp Chulalongkorn University Demonstration School. Cô hiện đang theo học khoa Thương mại và Kế toán tại Đại học Chulalongkorn. Sự nghiệp. Cơ hội diễn xuất đầu tiên của Prim là trong bộ phim "Chiang Khan Story", thủ vai nữ chính thuở nhỏ. Từ năm 2014 đến 2019, cô tiếp tục đảm nhận vai khách mời trong một số dự án như "Luerd Ruk Toranong" (2016), "U-Prince: Chàng cao bồi đẹp trai" (2016) và "Ngược dòng thời gian để yêu anh" (2018). Prim chính thức ký hợp đồng cùng GMMTV vào năm 2019, và góp mặt với một vai phụ trong "Phi vụ học đường." Năm 2020, cô đảm nhận vai chính đầu tiên trong "", và sau đó là (2021–2022), bộ phim giúp tên tuổi cô đến gần hơn với khán giả quốc tế. Năm 2022, cô đóng chính phần "Somewhere Only We Belong" thuộc phim hợp tuyển "Good Old Days", cùng với Perawat Sangpotirat. Tháng 7 năm 2023, Prim quay trở lại màn ảnh nhỏ với vai nữ chính trong bộ phim Enigma. Cũng trong năm nay, cô còn một tác phẩm khác là "Because You're My First Love". Ngoài ra, Prim cũng hợp tác với nhiều hãng thời trang xa xỉ, một vài nhà mốt bao gồm Dior, Louis Vuitton, Gucci, Versace, Bulgari. Cô cũng trở thành người đại diện cho các thương hiệu như Shein và Doctorlogy. Prim còn thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí thời trang nổi tiếng như L'Officiel, Elle, Harper's Bazaar và Vogue.
7,905,675
19,812,169
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812169
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ
Markéta Vondroušová là nhà vô địch, đánh bại Ons Jabeur trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam đầu tiên của Vondroušová. Vondroušová trở thành tay vợt nữ không xếp loại hạt giống đầu tiên trong lịch sử vô địch Wimbledon, là tay vợt nữ đầu tiên không xếp loại hạt giống vào trận chung kết sau Billie Jean King vào năm 1963, và ở vị trí số 42 thế giới cô trở thành tay vợt có thứ hạng thấp thứ hai vào trận chung kết kể từ khi bảng xếp hạng WTA ra đời vào năm 1975. Với chức vô địch, Vondroušová có lần đầu tiên vào top 10 trên bảng xếp hạng WTA. Elena Rybakina là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Jabeur. Trận thua của cô đảm bảo có một tay vợt lần đầu tiên vô địch Wimbledon. Elina Svitolina là tay vợt đặc cách đầu tiên vào vòng bán kết Wimbledon sau Sabine Lisicki vào năm 2011. Trận đấu giữa Vondroušová và Svitolina là trận bán kết đầu tiên giữa hai tay không xếp loại hạt giống tại Wimbledon trong Kỷ nguyên Mở. Đây là giải Wimbledon đầu tiên kể từ năm 2009 và là giải Grand Slam đầu tiên sau Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2013, bốn hạt giống hàng đầu (Iga Świątek, Aryna Sabalenka, Rybakina, và Jessica Pegula) vào vòng tứ kết. Świątek và Sabalenka cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn nữ khi giải đấu bắt đầu. Świątek giữ nguyên thứ hạng sau khi Sabalenka thua ở vòng bán kết. Trận đấu vòng 2 giữa Ekaterina Alexandrova và Madison Brengle là trận đấu đơn nữ Wimbledon đầu tiên trong Kỷ nguyên Mở (và thứ 4 trong lịch sử Grand Slam) có ba set vào loạt tiebreak. Trận đấu vòng 3 giữa Lesia Tsurenko và Ana Bogdan kết thúc bằng một loạt tiebreak ở set ba với tổng cộng 38 điểm, loạt tiebreak đơn nữ dài nhất trong lịch sử. Đây là giải đấu cuối cùng của cựu tay vợt số 2 thế giới Anett Kontaveit. Cô thua ở vòng 2 trước Marie Bouzková. Vận động viên khác. Rút lui. Danh sách tham dự được công bố dựa trên bảng xếp hạng WTA trong tuần của ngày 22 tháng 5 năm 2023.
7,905,689
19,812,258
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812258
Superboy-Prime
Superboy-Prime (Clark Kent, sinh ra với tên Kal-El), còn được biết đến với tên Superman-Prime hoặc đơn giản là Prime, là một siêu anh hùng DC Comics đã trở thành một siêu ác nhân và là một phiên bản khác của Superman. Nhân vật này lần đầu xuất hiện trong "DC Comics Presents" #87 (Tháng 11 năm 1985) và được tạo ra bởi Elliot S. Maggin và Curt Swan (dựa trên nhân vật Superboy gốc của Jerry Siegel và Joe Shuster). Superboy-Prime đến từ một Trái đất song song được gọi là Trái đất Prime, không có siêu anh hùng hoặc người siêu năng. Trên đó, Superman và các siêu anh hùng khác chỉ là những nhân vật hư cấu, như trong đời thực. Vũ trụ Trái đất Prime đã bị xoá sổ trong sự kiện "Crisis on Infinite Earths" (Tháng 4 năm 1985 - Tháng 3 năm 1986), và Superboy-Prime đã lạc vào một "thiên đường" chiều không gian, trong thời gian đó, anh không thể từ bỏ cuộc sống và định mệnh trước đây của mình như siêu anh hùng vĩ đại nhất của Trái đất. Theo thời gian, niềm tin và đạo đức của anh trở nên vặn vẹo và bị biến tướng, anh tin rằng Trái đất Prime là Trái đất duy nhất thích hợp và Superboy-Prime là người duy nhất xứng đáng với danh hiệu Superboy. Prime kiên quyết tin rằng trở thành Superman là sứ mệnh của mình, mặc dù thực tế là anh đã trở thành một ác nhân tâm thần, tàn bạo và đôi khi thậm chí là độc ác. Sức mạnh vô địch, tốc độ, tính bất đoán và tàn nhẫn của anh làm cho anh trở thành một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất trong Vũ trụ DC. Tên "Superman-Prime" lần đầu được Grant Morrison sử dụng trong "DC One Million" (1998) cho Superman chính trong thế kỷ thứ 853 (nó về cơ bản là Superman cùng câu chuyện All-Star Superman). Superboy của Trái đất Prime tự nhận mình là "Superboy-Prime" trong "Infinite Crisis" #2 (Tháng 1 năm 2006).
7,905,720
19,812,462
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812462
Memrise
Memrise là một nền tảng học ngôn ngữ sử dụng Kỹ thuật lặp lại ngắt quãng để tăng khả năng ghi nhớ,kết hợp với thực hành do AI GPT3 cung cấp, cho phép người học có các cuộc hội thoại gần giống con người, Memrise tin rằng có thể giúp người học vượt qua“lỗ hổng tự tin” trong việc học ngôn ngữHiện nay ứng dụng này đang có 20 ngôn ngữ khác nhau . Tính đến năm 2021, ứng dụng đã có 60 triệu người dùng đăng ký và ứng dụng đã có doanh thu 24,5 triệu Đô la Mỹ . Lịch sử ứng dụng. Memrise được thành vào tháng 9 nắm 2010 bởi Ed Cooked cùng với đồng sáng lập Ben Whately và Greg Detre , Vào ngày 1 tháng 10 năm 2012, 100 người dùng đã được phép đăng ký để thử nghiệm phiên bản Memrise 1.0 .Kể từ tháng 5 năm 2013, ứng dụng Memrise đã đưa lên Google Play và App Store (iOS/iPadOS). Tính đến tháng 1 năm 2020, ứng dụng đã được đầu tư 21,8 triệu đô la đầu tư trong tổng số bảy vòng hạt giống Mô hình học. Memrise có nhiều nội dung và chủ đề khác nhau do người dùng tạo ra và giống như Duolingo Memrise giúp người sử dụng "vừa học vừa chơi".Hiện nay ứng dụng này đang có 16 ngôn ngữ khác nhau kết hợp với bài học do GTP3 cung cấp, cho phép người học thực hành các cuộc hội thoại giống như con người Lặp lại ngắt quãng. Memrise sử dụng phương pháp lặp lại ngắt quãng nghĩa là là kỹ thuật gia tăng thời gian giữa những lần ôn tập, tức lặp đi lặp lại những kiến thức đã học theo chu kỳ giúp tăng khả năng ghi nhớ kiến thức đã học Ưu điểm và nhược điểm. Nhược điểm. Tài khoản miễn phí hạn chế một số tính năng như cho phép người dùng học về phát âm, luyện kĩ năng nghe, nắm vững ngữ pháp… Bài tập đơn giản, nên dễ gây nhàm cho người muốn học nâng cao. Giải thưởng. Vào tháng 7 năm 2010, Memrise được vinh danh trong giải London Mini-Seedcamp.Vào tháng 11 năm 2010,Memrise được vinh danh là một trong những ứng cử viên cuối cùng cho Công ty khởi nghiệp của năm tại TechCrunch EuropasVào tháng 3 năm 2011, Memrise tiếp tục được bầu chọn là một trong những công ty khởi nghiệp của Techstars Boston. Vào tháng 5 năm 2017, Memrise được vinh danh là "Ứng dụng tốt nhất" tại giải thưởng Google Play lần thứ hai. c
7,905,761
19,812,575
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19812575
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2026 khu vực châu Á (Vòng 1)
Vòng thứ nhất khu vực châu Á của vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2026, cũng là vòng một của vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2027, dự kiến sẽ diễn ra từ ngày 12 đến ngày 17 tháng 10 năm 2023. Thể thức. Tổng cộng có 20 đội sẽ được bốc thăm và thi đấu hai lượt trên sân nhà và sân khách, 10 đội thắng sẽ vào vòng hai. Vì lễ bốc thăm vòng hai sẽ diễn ra cùng ngày với lễ bốc thăm vòng một, các đội thắng sẽ biết lịch thi đấu vòng hai của họ. Đây cũng là vòng một của vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2027. Đội thua có thành tích tốt nhất sẽ giành quyền vào thẳng vòng loại thứ 3, còn 9 đội còn lại sẽ cùng với Quần đảo Bắc Mariana tham dự vòng play-off. Bốc thăm. Lễ bốc thăm cho vòng loại đầu tiên sẽ được tổ chức vào ngày 27 tháng 7 năm 2023 lúc 14:00 () tại AFC House ở Kuala Lumpur, Malaysia. 20 đội này sẽ được chia thành 10 cặp, mỗi cặp sẽ thi đấu một trận trên sân nhà và một trận trên sân khách vào ngày 12 và 17 tháng 10 năm 2023. Các số trong ngoặc đơn cho biết thứ hạng của các đội trong Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA tháng 7 năm 2023. Ghi chú: Các đội in đậm đủ điều kiện cho vòng thứ hai. Tóm tắt. 10 đội chiến thắng sẽ tiến vào vòng thứ hai của vòng loại. <onlyinclude> </onlyinclude>
7,905,785