title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
162
259k
Đông Hưng (thị trấn)
Đông Hưng là thị trấn huyện lỵ của huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Thị trấn còn được người dân địa phương gọi với tên khác là "Cầu Nguyễn" (xuất phát từ cây cầu có tên là Nguyễn bắc qua sông Tiên Hưng thuộc địa phận thị trấn). Địa lý. Thị trấn Đông Hưng nằm ở phía bắc của huyện Đông Hưng, bên bờ nam sông Tiên Hưng, có vị trí địa lý: Thị trấn Đông Hưng có diện tích 0,69 km². Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, thị trấn Đông Hưng có dân số là 3.614 người. Giao thông. Quốc lộ 10 đi ngang qua thị trấn theo hướng bắc – nam, quốc lộ 39B đi từ phía tây sang phía đông và đi trùng với quốc lộ 10 trước khi tách ra tại xã Đông Mỹ thuộc thành phố Thái Bình. Cầu Nguyễn nằm phía bắc địa phận thị trấn Đông Hưng bắc qua sông Tiên Hưng; vì vậy dân địa phương hay gọi thị trấn Đông Hưng với tên thân mật là "Nguyễn".
Hà Giang, Đông Hưng
Hà Giang là một xã thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Tên của xã được ghép từ tên của hai xã cũ là Đông Hà và Đông Giang. Địa lý. Xã Hà Giang nằm ở phía đông huyện Đông Hưng, có vị trí địa lý: Xã Hà Giang có diện tích 9,22 km², dân số năm 2019 là 9.167 người, mật độ dân số đạt 994 người/km². Lịch sử. Địa bàn xã Hà Giang hiện nay trước đây vốn là hai xã Đông Hà và Đông Giang thuộc huyện Đông Hưng. Trước khi sáp nhập, xã Đông Hà có diện tích 5,30 km², dân số là 5.315 người, mật độ dân số đạt 1.003 người/km². Xã Đông Giang có diện tích 3,92 km², dân số là 3.852 người, mật độ dân số đạt 983 người/km². Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 892/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thái Bình (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của hai xã Đông Hà và Đông Giang thành xã Hà Giang.
Ráng lá chuối Hải Nam
Ráng lá chuối Hải Nam (danh pháp khoa học: Oleandra hainanensis) là một loài dương xỉ thuộc họ Oleandraceae. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.
Tri Trung
Tri Trung là một xã thuộc huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Đây là xã có Dự án đường trục phía nam Hà Nội đi qua. Diện tích và dân số. Xã Tri Trung có diện tích 3,82 km². Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, xã Tri Trung có số dân 3.636 người. Địa giới hành chính. Xã Tri Trung nằm ở phía tây bắc của huyện Phú Xuyên. Hành chính. Xã Tri Trung gồm hai làng (thôn) là Tri Chỉ (Kẻ Chể) và Trung Lập (Kẻ Sộp). Lịch sử. Xã Tri Trung được thành lập lần đầu năm 1946, là năm Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trên cơ sở sáp nhập hai xã Tri Chỉ và Trung Lập của tổng Tri Chỉ. Lúc này xã Tri Trung thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. Năm 1948, xã Tri Trung cùng với xã Phú Túc (kể cả làng Đường La và Trình Viên) lập thành xã Ái Quốc. Năm 1956, Chính phủ tách hai thôn Tri Chỉ (làng Chể) và Trung Lập (làng Sộp) của xã Ái Quốc tái lập lại xã Tri Trung cho đến ngày nay. Làng Tri Chỉ. Làng Chể (làng Tri Chỉ) là một làng quê thuộc vùng đồng chiêm trũng, với địa thế nằm dọc theo bờ sông Nhuệ, chiều dài khoảng 1 km, làng Tri Chỉ có thế đất rất đặc biệt theo kiểu chữ Nhi (而) và chia thành hai làng (làng Thượng và làng Hạ) với diện tích 470 mẫu (đất canh tác 420 mẫu, đất thổ cư 50 mẫu), dân số 2.154 nhân khẩu (459 hộ gia đình), đời sống chính là sản xuất nông nghiệp. Về mặt địa lý, làng Tri Chỉ phía đông giáp sông Nhuệ, phía tây giáp xã Phú Túc, phía bắc giáp làng Tân Độ (làng Nhầu) thuộc xã Hồng Minh, phía nam giáp làng Trung Lập (làng Sộp) thuộc xã Tri Trung. Theo âm Hán Việt: Tri là biết, Chỉ là dừng lại; tên làng Tri Chỉ có nghĩa là biết dừng. Qua khảo sát một số tộc phả ở Tri Chỉ và một vài di chỉ như rìu đồng ở ao Phục Viên, trống đồng ở làng Trung Lập, tiền xu mang chữ "Hưng triều thông bảo", bia đề "Mã Viện chi thê" ở Nghè (nhiều người trong làng cho biết là đã nhìn thấy, nay đã bị thất lạc), đồng thời, dựa vào các sách Tên làng xã Việt Nam thế kỉ XIX, cộng với tư liệu địa phương, chúng ta có thể biết: Vào đời Lê Thái Tông, niên hiệu Thiệu Bình (1434 -1439), Tri Chỉ là một xã của tổng Hoà Mỹ, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam, có nghĩa là từ thời điểm đó, chúng ta mới biết được một "địa chỉ" cụ thể về Tri Chỉ trong hệ thống làng xã Việt Nam cổ truyền. Từ đây, làng Tri Chỉ có một số thay đổi về địa danh: Đầu thế kỉ XIX thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Trước năm 1888 thuộc tỉnh Hà Nội, trước năm 1945 là xã Tri Chỉ thuộc tổng Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông gồm các xóm (khu dân cư): ngõ Sọi, ngõ Làng, ngõ Chỗ, ngõ Cừ (làng Thượng), ngõ Đình, ngõ Hổi, ngõ Ngói, ngõ Bờ Sông, Ngõ Cõi, ngõ Đông, Ngõ Cây Thơm (làng Hạ), sau đổi thành các xóm: Thanh Tự, Thanh Khê, Thanh Tân, Thanh Lịch, Chính Tâm và Đông Phú. Mỗi xóm có một trưởng xóm do trong xóm cắt phiên mỗi người làm một năm và có ngày tháng quy định, ở đầu các xóm có một mảnh đất khoảng 70m2 để xây miếu thờ Thổ công xóm (nay đã biến thành khu dân cư). Năm 1946, hai xã Tri Chỉ và Trung Lập của tổng Tri Chỉ sáp nhập thành xã Tri Trung thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. Năm 1948 xã Tri Trung cùng với xã Phú Túc (kể cả làng Đường La và Trình Viên) lập thành xã Ái Quốc. Trong thời gian này, các xóm (ngõ) cũ của làng Tri Chỉ cũng được thay đổi: ngõ Sọi, ngõ Làng, ngõ Chỗ đổi thành xóm Hoà Bình; ngõ Đình, ngõ Hổi (xóm Thanh Tân cũ) đổi thành xóm Hạnh Phúc; ngõ Ngói (Thanh Lịch cũ) đổi thành xóm Dân Chủ; ngõ Cõi (Chính Tâm cũ) đổi thành xóm Tự Do; ngõ Đông (Đông Phú) đổi thành xóm Cộng Hoà. Hiện nay, làng Tri Chỉ chia thành ba khu dân cư (đội sản xuất): Đội sản xuất số 1 gồm cả xóm Hoà Bình (làng Thượng); Đội sản xuất số 2 gồm hai xóm cũ Hạnh Phúc và Dân Chủ; Đội sản xuất số 3 gồm hai xóm: Tự Do và Cộng Hoà. Các đường (ngõ) của thôn Tri Chỉ ngày nay kể từ bắc xuống nam gồm: ngõ Thanh Tự, ngõ Thanh Lương, ngõ Tân Bình, ngõ Thanh Khê, ngõ Cừ, đường Hồng Minh – Tri Trung, ngõ Đình, ngõ Hổi, ngõ Bờ Sông, ngõ Ngói, ngõ Cõi, ngõ Đông và ngõ Cây Thơm. Phía đông của thôn là đường Cái, phía Tây là đường Tri Trung – Hoàng Long. Hai đường này chạy song song với nhau. Cách đây hàng trăm năm, nơi đây còn là vùng đầm lầy, hoang vu với những bãi bồi ven sông. Trải qua bao đời khai phá, ông cha ta đã chung lưng, đấu cật nhổ gốc, bốc trà, thau chua rửa mặn, biến những bãi đồng hoang vắng, đầm lầy lau sậy um tùm thành những cánh đồng thẳng cánh cò bay, dựng nên quê hương Tri Chỉ đầm ấm, đông đúc và vui vầy. Hiện nay đất canh tác gồm 420 mẫu Bắc Bộ chia thành các xứ đồng: Cán Tàn, Cây Chanh, Mụ (Cây Gáo), Cây Đa, Cây Đề, Đồng Sung, Sân Trà, Lầy, Xép, Gốc, Sậy, Dâu, Đường Cà, Ba Đỗi, Bói, Ác Bạc, Ngang, Cầu, Nẩy Trung, Nẩy Dài, Đồ Ấm... Năm 1937, làng Tri Chỉ có một xứ đồng Nhội khoảng 40 mẫu, do khơi dòng sông Nhuệ đã nắn lại đoạn sông từ làng Gọc (xã Phượng Dực) đến Ba Lương (thuộc xã Đại Xuyên) cho thẳng dòng, nên xứ đồng Nhội đã thuộc về làng Văn Trai thuộc xã Văn Hoàng, hiện nay làng Văn Trai gọi là xứ đồng Chể. Tên gọi kẻ Chể, cho chúng ta biết đây là vùng đất cổ, được khai phá từ rất sớm. Những nhóm người nhỏ gồm các dòng họ khác nhau lớn dần thành trang, ấp, chòm, xóm rồi thành làng như hiện nay. Làng chèo Trung Lập. Làng Trung Lập, tên nôm gọi là kẻ Sộp. Trước năm 1945 là xã Trung Lập thuộc tổng Tri Chỉ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông. Năm 1946 thuộc xã Tri Trung. Năm 1948 thuộc xã Ái Quốc. Năm 1952, xã Ái Quốc chia thành hai xã Phú Túc và Tri Trung, thôn Trung Lập thuộc xã Tri Trung cho đến ngày nay. Về vị trí địa lý, phía bắc giáp thôn Tri Chỉ (cùng xã), phía đông giáp xã Văn Hoàng, phía nam giáp xã Hoàng Long, phía tây giáp xã Phú Túc. Làng Trung Lập có diện tích 180,77 ha, dân số khoảng 1800 nhân khẩu, đời sống chính là sản xuất nông nghiệp. Tương truyền, ông Phó Dón và một số người khác đã đến khu đồng cao phía tây làng Tri Chỉ lập nên một xóm mới... Những chứng tích ra đời của làng Trung Lập vẫn còn nguyên giá trị lưu truyền về một cánh đồng có tên gọi là đồng Phó Dón, hoặc tên làng Lập Thôn ghi trong bản đồ hành chính của người Pháp in năm 1917. Cho mãi tới sau này, người dân Lập Thôn mới đổi tên làng thành làng Trung Lập. Lập nên làng mới, nhân dân Trung Lập và Tri Chỉ đã chọn cánh đồng Xép Nhọn là nơi giáp canh, trồng cột mốc giữa hai làng làm nơi giáp cư mà người cưa gọi là đường Đá Mốc. Dân làng Lập Thôn còn xây dựng đình, chùa làm nơi giao lưu văn hoá, lập miếu Thượng, miếu Trung để ghi nhớ công lao người tiền bối gây dựng cơ nghiệp.. Trước năm 1965, làng Trung Lập có bốn xóm và năm ngõ: xóm 1 - Nam Dương Hạng, xóm 2 - Đông Dương Hạng, xóm 3 - Trung Hưng Hạ Hạng, xóm 4 - Tử Dương Hạng; ngõ 1 - Nam Dương Hạng, ngõ 2 - Đông Dương Hạng, ngõ 3 - Trung Hưng Hạ Hạng, ngõ 4 (có cổng) - Trung Hưng Hạ Thượng, ngõ 5 - Tử Dương Hạng (nay là xóm Tía). Bốn xóm, năm ngõ này về sau hợp thành ba giáp: Đông, Tây, Nam. Hiện nay, làng Trung Lập được chia thành sáu xóm: xóm Nhất, xóm Nhị, xóm Tam trên, xóm Tam dưới, xóm Tía và xóm Mương. Tính đến tháng 9 năm 2009, làng Trung Lập có 17 dòng họ. Làng chèo Trung Lập, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên là ngôi làng thuần nông và có nghề vác đất, đắp đất cho nhiều nơi để kiếm sống. Đoàn Chèo của làng được thành lập từ năm 1936. Tuy nhiên về danh nghĩa thì Câu lạc bộ Hát chèo của làng Trung Lập chính thức được thành lập từ năm 1999 như là nơi để mọi người thể hiện niềm say mê với Chèo, đồng thời cũng lưu giữ lại các vốn Chèo cổ có nguy cơ bị mai một. Tuy "biên chế" của đoàn chỉ có hơn 30 người chính thức, nhưng Trung Lập đã thành làng hát Chèo, nhiều nghệ nhân như Đỗ Thị Hoa, Lê Thị Phái, Lê Danh Ứng, Quang Liễn, Lê Tuấn Khiết… đã được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương vì phong trào văn hóa nghệ thuật. Từ làng Chèo Trung Lập, nhiều thế hệ đã đi đây đi đó, quảng bá cho chèo truyền thống. Con em ở làng hiện nay có nhiều người đang công tác ở các đoàn chèo Hà Nội, Phú Thọ, Đài Tiếng nói Việt Nam... Các vở diễn thành công phải kể đến: Khói lửa Cầu Giẽ, Sức mới vào xuân, Sóng vỗ chân cầu, Đất quê hương...
Nguyên Xá, Đông Hưng
Nguyên Xá là một xã thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Diện tích và dân số. Xã Nguyên Xá có diện tích 4,61 km². Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, xã Nguyên Xá có số dân 6.790 người. Địa giới hành chính. Xã Nguyên Xá nằm ở phần trung tâm của huyện Đông Hưng, bên bờ nam sông Tiên Hưng. Giao thông. Quốc lộ 39A đi ngang qua xã theo hướng đông bắc – tây nam.
Helsingborg (đô thị)
Đô thị Helsingborg (tiếng Thụy Điển: "Helsingborgs kommun") là một đô thị ở hạt Skåne của Thụy Điển. Thủ phủ nằm ở thành phố Helsingborg, là thành phố lớn thứ tám của Thụy Điển. Đô thị này có dân số 128.400 người vào thời điểm tháng 1 năm 2010, và dân số đang gia tăng với khoảng 1.600 người mỗi năm. Đô thị hiện nay đã được tạo ra vào năm 1971 thông qua việc hợp nhất của thành phố Hälsingborg với bốn đô thị nông nghiệp xung quanh. Đồng thời tên gọi của đô thị đã được thay đổi trở lại với tên gọi sử dụng cho đến năm 1912. Kể từ những năm 1990, đô thị này tự gọi mình là "Helsingborgs stad" (thành phố Helsingborg). Tuy nhiên việc sử dụng tên gọi này chỉ có danh nghĩa và không có tác dụng về tình trạng của đô thị này.
Phong Châu, Đông Hưng
Phong Châu là một xã thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Diện tích và dân số. Xã Phong Châu có diện tích 4,79 km². Theo Tổng điều tra dân số năm 2018, xã Phong Châu có số dân 19.719 người. Địa giới hành chính. Xã Phong Châu nằm ở phía tây của huyện Đông Hưng, bên bờ nam sông Tiên Hưng và ở phía bắc quốc lộ 39B.
Oncoba lophocarpa
Oncoba lophocarpa là một loài thực vật thuộc họ Salicaceae. Đây là loài đặc hữu của Cameroon. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.
Opuntia echios
Opuntia echios là một loài thực vật thuộc họ Cactaceae. Đây là loài đặc hữu của quần đảo Galápagos (Ecuador) và tiếng Anh thường gọi là "Galápagos prickly pear", nhưng có năm loài vợt gai cũng là đặc hữu của quần đảo ("O. galapageia", "O. helleri", "O. insularis", "O. megasperma" and "O. saxicola"). "Opuntia echios" có năm thứ, mỗi thứ có bề ngoài và phân bố khác nhau: "Opuntia echios" var. "echios" trên đảo Santa Cruz, Baltra, Daphne Major và South Plaza, "Opuntia echios" var. "barringtonensis" trên đảo Santa Fe, "Opuntia echios" var. "gigantea" gần Vịnh Academy trên Santa Cruz, "Opuntia echios" var. "inermis" trên Sierra Negra Volcano của Isabela và "Opuntia echios" var. "zacana" trên đảo North Seymour.
Khánh Thiện, Yên Khánh
Khánh Thiện là một xã thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Địa lý. Xã Khánh Thiện cách trung tâm thành phố Ninh Bình 14 km, có vị trí địa lý: Xã Khánh Thiện có diện tích 2,92 km², dân số năm 2019 là 4.999 người, mật độ dân số đạt 1.712 người/km². Đây cũng là xã được công nhận Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ở Ninh Bình. Hành chính. Xã Khánh Thiện có 4 thôn, xóm được chia thành 3 thôn: Bồng Hải, Hiếu Thiện, Phú Hậu và xóm Chợ Xanh. Lịch sử. Tổng Bồng Hải xưa (xã Khánh Thiện) có Độ Tổng binh sứ Phạm Xuân chỉ huy quân đội triều định ở đạo Trường Yên đã cùng Phạm Đình Trọng dẹp loạn, được phong là "Oanh liệt Đại tướng quân, Hải Lượng hầu". Ngày 18 tháng 12 năm 1976, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thủ tướng ra Quyết định số 1506-TCCP<ref name=1506/1976/QĐ-TCCP>Quyết định số 1506-TCCP Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thủ tướng</ref> về việc chia xã Khánh Thủy thành 2 xã là xã Khánh Thủy và Khánh Thiện. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng chính phủ ban hành Quyết định 125-CP về việc sáp nhập xã Khánh Thiện thuộc huyện Yên Khánh mới giải thể vào huyện Yên Mô thành lập huyện Tam Điệp. Ngày 4 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 59-CP về việc chuyển xã Khánh Thiện thuộc huyện Tam Điệp về huyện Yên Khánh mới tái lập quản lý. Kinh tế. Cảng Xanh. Theo Quyết định Số: 2179/ QĐ-ủy ban nhân dân của tỉnh Ninh Bình ngày 17 tháng 9 năm 2007 V/v phê duyệt Quy hoạch giao thông đường thủy nội địa tỉnh Ninh Bình đến năm 2015 và định hướng phát triển đến năm 2020 thì Cảng Xanh có diện tích 3 ha nằm bên hữu sông Đáy thuộc xã Khánh Thiện- huyện Yên Khánh. Chức năng của cảng: Dự kiến xây dựng các hạng mục công trình: Công trình bến cảng, kho bãi. Trang thiết bị xếp dỡ. Nâng cấp khoảng 4÷5 km đường bộ. Văn phòng cảng… Chợ Xanh Khánh Thiện. Chợ Xanh Khánh Thiện là một chợ quê nổi tiếng nằm trên đường 481B mặc dù chợ Xanh chỉ nằm cách chợ Rồng Ninh Bình 16 km và chợ huyện Yên Khánh 6 km. Xưa chợ nằm giữa trung tâm vùng rau xanh và hoa màu Yên Khánh nên có tên là chợ Xanh. Hiện tại thì cái tên Xanh được gắn với nhiều địa danh ở Khánh Thiện như cầu Xanh, âu Xanh, cảng Xanh, đình tổng chợ Xanh... Khác với các chợ phiên lân cận chỉ họp trong một buổi và cách nhật, chợ Xanh họp tất cả các ngày trong tuần. Nói đến chợ Xanh, người dân có câu: "Khôn như ranh về chợ Xanh cũng dại".
Khánh Hòa, Yên Khánh
Khánh Hòa là một xã thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Địa lý. Xã Khánh Hòa nằm ở tây bắc huyện Yên Khánh, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 5 km, có vị trí địa lý: Xã Khánh Hòa có diện tích 5,99 km², dân số là 6.895 người, mật độ dân số đạt 1.151 người/km². Đây cũng là một xã nằm bên bờ sông Vạc. Đây là một xã có đường quốc lộ 10 nối thành phố Ninh Bình với thị trấn Phát Diệm đi qua. Đây là địa phương có dự án Đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh đi qua. Hành chính. Xã Khánh Hòa được chia thành 10 xóm: Chợ Dầu, Chùa, Đông, Ngoại, Nội, Rậm, Thuần Đầu, Thượng 1, Thượng 2, Xuân. Lịch sử. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng chính phủ ban hành Quyết định 125-CP về việc sáp nhập xã Khánh Hòa thuộc huyện Yên Khánh mới giải thể vào huyện Yên Mô thành lập huyện Tam Điệp. Ngày 4 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 59-CP về việc chuyển xã Khánh Hoà thuộc huyện Tam Điệp về huyện Yên Khánh mới tái lập quản lý. Kinh tế. Chợ Dầu - Xóm Chợ - Xã Khánh Hòa là một trong 8 chợ ở Yên Khánh trong danh sách các chợ loại 1, 2, 3 ở Ninh Bình.
Octoknema
Octoknema là một chi thực vật thuộc họ Olacaceae nghĩa rộng hay là chi duy nhất trong họ Octoknemaceae (đồng nghĩa: Octonemaceae). Chi này chứa khoảng 7 loài, sinh sống tại vùng nhiệt đới châu Phi. Chi "Octoknema" bao gồm các loại cây gỗ hay cây bụi đơn tính khác gốc với các lá đơn mọc so le, có cuống, không lá kèm, với lông tơ hình sao. Cụm hoa tụ lại thành chùm và xuất hiện từ các chồi nội sinh dưới vỏ cây. Các hoa đực mẫu 5 với các lá đài nhỏ xếp so le với các cánh hoa không xếp lợp lên nhau. Đĩa tuyến dạng thùy bao quanh nhụy lép. Các hoa cái mẫu 5 mang nhị lép đối diện với mỗi cánh hoa và có đầu nhụy nhiều thùy trên đỉnh vòi nhụy. Bầu nhụy hạ, dạng 3 ngăn phía dưới, nhưng trở thành 1 ngăn phía trên. Quả là loại quả hạch có bao hoa bền. Bề mặt hạt có thùy nhăn sâu. Đơn vị phân loại kỳ bí này đã thách thức phân loại học trong trên 100 năm. Chi này đã được Tieghem đặt trong họ của chính nó vào năm 1905, và kể từ đó đã luôn được nhiều tác giả gắn với họ Olacaceae. Louis & Léonard (1948) công nhận Octoknemaceae như một họ, nhưng gộp nó với chi "Okoubaka" (nay coi là thuộc họ Cervantesiaceae hay Santalaceae nghĩa rộng). Các đặc trưng hình thái hoặc là bất thường đối với bộ Santalales, chẳng hạn như các u lồi đầu nhụy nở rộng ở hoa cái, hoặc tạo ra các liên kết mâu thuẫn với các nhóm khác nhau. Chẳng hạn, các chồi lông tơ hình sao của hoa và giải phẫu gỗ liên kết nó với Coulaceae (Mildbread 1935; Reed 1955). Giải phẫu lá và gỗ (Baas 1982; van den Oever 1984) lại chỉ ra rằng đơn vị phân loại này là biệt lập với các nhóm khác trong phạm vi họ Olacaceae nghĩa rộng. Vi cấu trúc phấn hoa lại gợi ý mối quan hệ với Opiliaceae (Lobreau-Callen 1982), một vị trí phái sinh hơn trong phạm vi bộ Đàn hương mà theo Schultze-Motel (1964) thì nó trở thành một trông trong phân họ Schoepfioideae. Sự suy giảm hay mất đi của các lá đài ở một vài loài "Oktoknema" là phù hợp với các xu hướng nhận thấy ở các thành viên phái sinh hơn của bộ Santalales. Vị trí của "Octoknema" trên cây phát sinh chủng loài phân tử (Malécot & Nickrent, 2008) như là nhóm chị em (nhưng với hỗ trợ thấp) với nhánh chứa Schoepfiaceae, Misodendraceae, Loranthaceae và Opiliaceae cũng hỗ trợ khái niệm này. Kiểu sống ký sinh chưa thấy được ghi nhận cho "Octoknema", nhưng vị trí phát sinh chủng loài của nó chỉ ra xu hướng thiên về điều kiện dinh dưỡng này. Các loài. Chi này có các loài sau (tuy nhiên danh sách này có thể chưa đủ):
Khánh Phú, Yên Khánh
Khánh Phú là một xã thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Địa lý. Xã Khánh Phú nằm ở phía bắc huyện Yên Khánh, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 5 km, có vị trí địa lý: Xã Khánh Phú có diện tích 5,92 km², dân số năm 2019 là 6.658 người, mật độ dân số đạt 1.125 người/km². Hành chính. Xã Khánh Phú được chia thành 8 thôn: Phú An, Phú Long, Phú Tân, Phú Hải, Phú Hào, Phú Cường, Phú Bình, Phú Sơn. Lịch sử. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng chính phủ ban hành Quyết định 125-CP về việc sáp nhập xã Khánh Phú thuộc huyện Yên Khánh mới giải thể vào huyện Yên Mô thành lập huyện Tam Điệp. Ngày 4 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 59-CP về việc chuyển xã Khánh Phú thuộc huyện Tam Điệp về huyện Yên Khánh mới tái lập quản lý. Kinh tế. Xã Khánh Phú nằm trên quốc lộ 10 và bên sông Đáy, có cảng Ninh Phúc là cảng đầu mối của khu vực và khu công nghiệp Khánh Phú. Xã có nền kinh tế phát triển nhất huyện Yên Khánh, ngang tầm với thị trấn Yên Ninh. Khu công nghiệp Khánh Phú (thuộc xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình và xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh). Tổng diện tích đất phát triển 334 ha (giai đoạn I: 171,16ha, giai đoạn II: 168ha), trong đó đất xây dựng nhà máy là 231,54ha. Dự kiến các loại hình sản xuất chủ yếu: Đạm 56 vạn tấn/năm, than (sàng tuyển) 300.000/năm; Bốc hàng hoá 1,1 tr tấn/năm; Đóng, sửa chữa tàu thuyền. Chợ Vệ - Thôn Phú Tân - Xã Khánh Phú là một trong 8 chợ ở Yên Khánh trong danh sách các chợ loại 1, 2, 3 ở Ninh Bình. Chợ Vệ là chợ loại 2, sau chợ Rồng là chợ lớn nhất ở Ninh Bình. Hợp tác xã nông nghiệp Khánh Phú đã được công nhận Anh hùng lao động ở Ninh Bình. Văn hóa. Xã Khánh Phú có quần thể di tích Đền Thượng - Chùa Phúc Long được công nhận là di tích quốc gia. Bản Tự phả chùa cổ Đông Hải, do Minh Tuệ thiền sư trụ trì chùa chép năm Canh Tý (1840), cũng theo Ngọc phả thời Lê do Quản giám bách thần Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc (1557) ghi rằng: Chùa này có từ thời Đinh - Tiền Lê, gần biển nên gọi là chùa Đông Hải. Thời trẻ Đào Cam Mộc từng tu học, giỏi võ, thông văn được sư tổ cho đi tìm minh quân, sau đó ông vào Hoa Lư làm quan cho nhà Tiền Lê, nhà Lý. Tháng 6-1010, Lý Thái Tổ phong Đào Cam Mộc chức Thiên Đô tiên phong tướng quân chỉ huy cuộc dời đô, tại đây triều đình làm Lễ tế cáo trời đất, xuất quân nên từ đó đổi tên là chùa Thiên Đô. Lễ hội làng Yên Vệ hàng năm là một lễ hội nổi tiếng ở Ninh Bình. Lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng tại Đền Thượng suy tôn Tam thánh tổ gồm các thiền sư Minh Không, Giác Hải và Từ Đạo Hạnh. Sau phần lễ có thi đấu vật.
Rèm
Rèm hay Màn cũng có gọi khác là mành, miền bắc và bắc trung bộ thường gọi là ri đô, là một vật dụng dùng để che cửa sổ, cửa phòng khách, cửa phòng ngủ, cửa bếp ăn, phòng tắm, ban công hoặc treo để ngăn giữa hai không gian. Rèm cũng dùng để trang trí không gian nội thất, được treo trên tường hoặc các đồ vật như tủ gỗ, ban thờ, giường... Khi sử dụng, người ta để mở rèm để che kín một phần hoặc toàn bộ cửa sổ theo nhu cầu. Khi không có nhu cầu che nắng, gió hoặc để lấy ánh sáng, người ta có thể xếp gọn rèm sang hai bên hoặc kéo gọn lên phía trên. Lịch sử. Dựa vào các bằng chứng thu thập được tại các di chỉ khai quật ở Olynthus, Pompeii và Herculaneum, có vẻ như trong thời cổ đại cổ điển, các cổng vòm được sử dụng như vách ngăn phòng, kèm theo tấm rèm treo trên ô cửa. Tranh khảm từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 6 minh họa việc rèm treo trên thanh ngang qua các mái vòm. Nước Anh. Tại Anh, rèm cửa đã bắt đầu thay thế cửa chớp bằng gỗ vào cuối thế kỷ 16. Trước đó, trong thời Trung cổ, cách xử lý cửa sổ sơ khai nhất là sử dụng tấm da luồn qua các thanh sắt. Nhưng cuối cùng, tấm da được thay thế bằng rèm len dệt. Trong thời kỳ của Nữ hoàng Elizabeth I, Anh đã nhập khẩu các loại vải thời Phục hưng từ Ý, như thổ cẩm, nhung và gấm hoa, và trang trí chúng một cách lộng lẫy. Những loại vải trang trí phức tạp này, cùng với rèm được thêu bằng phi hành đoàn, đã được sử dụng làm rèm cửa trong thời kỳ Elizabeth và Jacobean. Tuy nhiên, trong mùa lạnh, vẫn sử dụng cửa chớp bằng gỗ cứng. Nhà Fatimid. Trong Nhà Fatimid, một bức màn được gọi là "sitr" ("vải che") được sử dụng để che giấu vị caliph vào đầu buổi đối thoại ("majlis"). Một người hầu gọi là "ṣāḥib al-sitr" (hoặc "muṭawallī al-sitr") sau đó sẽ kéo lùi nó để tiết lộ vị caliph ngồi trên ngai vàng của mình. Sahib al-sitr cũng kết hợp với nhiệm vụ của thủ quỹ, người chủ trì buổi lễ và người mang kiếm của caliph, và thường được chọn từ những người mamluk có nguồn gốc saqaliba. Kiểm soát ánh sáng và cách nhiệt. Rèm được làm từ nhiều loại vải dày, mỗi loại có khả năng hấp thụ ánh sáng và khả năng cách nhiệt khác nhau. Để tối đa hóa việc kiểm soát nhiệt độ, khoảng cách giữa rèm và cửa sổ cần nhỏ, đồng thời giảm thiểu luồng không khí đối lưu bên dưới hoặc bên trên rèm. Các cấu trúc kiến trúc xung quanh rèm có thể giúp giảm thiểu luồng không khí này, tuy nhiên, thường thì chúng được sử dụng chủ yếu để trang trí và tạo cảm giác ấm cúng cho căn phòng. Một bức màn mỏng hoặc màn treo mạng là loại màn được làm từ vải trong suốt, chẳng hạn như vải voile polyester được dệt lỏng, lụa hoặc nylon làm từ marquisette hoặc ninon, và đồ ren bằng cotton, v.v. Màn treo mỏng cho phép ánh sáng chuyển qua vải một cách lớn, trong đó cấu trúc vải cung cấp mức độ cơ bản của bảo vệ tia tử ngoại trong khi vẫn giữ được tầm nhìn tối đa ra ngoài qua màn. Các màn mỏng đôi khi được gọi là "màn che riêng tư" để chỉ khả năng lọc sáng; vào ban ngày, hầu hết các loại vải mỏng sẽ cho phép người trong nhà nhìn ra ngoài trong khi ngăn người bên ngoài nhìn thẳng vào trong nhà. Do cấu trúc lỏng lẻo của vải mỏng, loại màn này cung cấp rất ít khả năng cách nhiệt. Vải không tráng phủ cung cấp khả năng cách nhiệt và hấp thụ ánh sáng ở mức trung bình. Loại vải này thường được sử dụng để làm rèm cửa, ví dụ như vải dệt chặt bằng sợi bông/polyester, có vẻ mờ đục dưới ánh sáng. Mặc dù vải không tráng phủ có khả năng cách nhiệt tốt nhờ việc dệt chặt, nhưng nó vẫn mỏng hơn để hoàn toàn hấp thụ ánh sáng mạnh. Kết quả là, mặc dù rèm làm từ vải không tráng phủ có thể cố gắng ngăn ánh sáng mặt trời trực tiếp, ánh sáng vẫn có thể xuyên qua rèm do tính sáng bóng của vải. Vải tráng phủ bao gồm một loại vải không tráng phủ tiêu chuẩn, được dán một lớp nền cao su mờ đục ở phía sau để cải thiện khả năng hấp thụ ánh sáng. Quá trình sản xuất vải tráng phủ bao gồm việc phủ một lớp polyme cao su lỏng lên mặt vải không tráng phủ, sau đó sấy khô bằng trục lăn nóng, tương tự như việc in mực lên giấy và sấy khô. Vải có một lớp phủ được xem là "được phủ 1 lần" hoặc được gọi là "mờ" hoặc "mất điện" vì nó có khả năng hấp thụ khoảng 50-70% ánh sáng trực tiếp. Để nâng cao khả năng hấp thụ ánh sáng, vải có thể được phủ lại tới 3 lớp, đủ để chặn 100% ánh sáng trực tiếp, và vải như vậy được gọi là "lớp phủ chặn". Để đạt được khả năng hấp thụ ánh sáng và cách nhiệt tối đa, rèm thường được thiết kế với một tấm rèm có lớp lót. Tấm rèm này thường bao gồm một lớp vải không tráng phủ ở phía trước, tạo ra vẻ ngoài và cảm giác của một chiếc rèm, và một lớp vải tráng riêng biệt được gắn ở phía sau để cung cấp khả năng cách nhiệt. Lớp vải tráng thường được gọi là "lớp lót" và nó đơn giản chỉ là một lớp vải tráng không có màu sắc hoặc hoa văn đặc biệt. Rèm có thể được giữ lại bằng cách sử dụng dây buộc, như một vòng vải hoặc dây, để giữ rèm mở sang một bên. Thường thì dây buộc này được luồn qua một vòng trên móc gắn vào tường và buộc chặt bằng nút thắt, nút hoặc khóa dán. Thường, dây buộc còn được trang trí bằng tua rua. Rèm cũng có thể được đóng và mở bằng cách sử dụng thanh kéo, có thể là thanh nhựa, gỗ hoặc kim loại có khả năng xoắn và kéo. Hoặc có thể sử dụng thanh treo rèm được gắn vào các ngăn chạy hoặc móc đầu tiên. Nút chặn móc rèm là một thiết bị được sử dụng để ngăn rèm từ việc rơi ra khỏi phần cuối của thanh treo rèm. Mặc dù một số loại rèm cửa có thể sử dụng hệ thống ròng rọc, không nên nhầm lẫn chúng với rèm cuốn hoặc rèm cuốn. Rèm cuốn và rèm cuốn thường được sử dụng để chỉ những loại rèm có thể được cuốn lên hoặc cuốn xuống bằng một cơ chế hoạt động. Tuy nhiên, cả ba loại rèm này được sử dụng như một xử lý cửa sổ, để che phủ hoặc làm cho cửa sổ trở nên đẹp hơn, và cải thiện không gian của căn phòng. Các loại rèm. Rèm cửa tạo điểm nhấn cho căn phòng. Có ít nhất 20 kiểu rèm khác nhau và màn cửa cũng có thể sử dụng trên cửa sổ.
Súng trường tấn công Type 56
Súng trường tự động Kiểu 56 (Tiếng Trung: 五六式自動步槍, Phiên âm Hán – Việt: Ngũ lục thức tự động bộ thương), hay K-56 (Kiểu 56) hoặc QBZ-56, là loại súng trường tấn công do Trung Quốc sản xuất dựa trên AK-47 và AKM. Súng được sản xuất từ năm 1956 tại Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 của Trung Quốc, đến năm 1973, Norinco thay thế Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 tiếp tục sản xuất loại súng này. Lịch sử hoạt động. K-56 được sử dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia và nhiều chiến trường tại Châu Á, Châu Phi, Nam Mĩ và Đông Âu. Một tài liệu không chính xác cho biết trên thế giới có đến 10-15 triệu khẩu K-56, chiếm 1/5 số súng AK đã được sản xuất trên thế giới. Đặc biệt trong Chiến tranh lạnh, Trung Quốc vừa xuất khẩu vừa viện trợ loại súng này cho nhiều nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Ở Việt Nam, súng thường bị nhầm với phiên bản CKC của Trung Quốc cũng có tên là Kiểu 56 và cũng được sử dụng nhiều tại Việt Nam, vì vậy, để tránh nhầm lẫn, nhiều người gọi K-56 là AK Trung Quốc, còn mẫu CKC "Type 56" do Trung Quốc chế tạo vẫn được gọi là CKC như các phiên bản của Liên Xô. Trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, Kiểu 56 đã xuất hiện ở cả hai bên chiến tuyến. Trong Chiến tranh Iran-Iraq, cả Iran và Iraq cũng đều sử dụng K-56. Kiểu 56 cũng xuất hiện trong Chiến tranh Kosovo. Hiện nay, cũng giống với tình trạng của AK-47 và AKM, K-56 đang được nhiều lực lượng vũ trang, thậm chí các tổ chức khủng bố, ma túy hay mafia sử dụng điển hình như Taliban hay Al-Qaeda. K-56 vẫn được Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc giữ cho lực lượng dự bị và quân động viên, dù ít xuất hiện trong lực lượng chính quy của Trung Quốc. Trong quân đội chính quy, K-56 được thay bằng K-81 và K-84. Mặc dù từ năm 2008 súng trường tiến công tiêu chuẩn là AKM và AKMS nhưng K-56 vẫn còn trong biên chế Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bởi vì K-56 nặng hơn AK-47 và một số biến thể của AK-47, động lượng khi bắn lớn hơn dẫn tới độ chụm cao hơn AK-47, cộng thêm tiếp nhận các ưu điểm từ AKM nên Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn giữ K-56 lại trong biên chế. Đặc tính cơ bản. Về cơ bản, K-56 có cấu tạo và nguyên lý hoạt động tương tự AK-47, chỉ có vài khác biệt nhỏ như lưỡi lê ba cạnh gập dưới nòng súng thay vì sử dụng lưỡi lê kiểu lá lúa của AK-47, ngoài ra, đầu ruồi của súng còn được bảo vệ bằng một vòng tròn kín thay vì nửa vòng như AK-47. Dựa trên phiên bản gốc K-56, Trung Quốc phát triển các phiên bản cải tiến như K-56 I/II (báng xếp), K-56C (còn gọi là QBZ-56C, phiên bản cắt ngắn nòng, dùng hộp tiếp đạn 20 viên), K-84 (phiên bản dùng đạn 5,56mm tiêu chuẩn NATO). Sản xuất. Ngoài Trung Quốc thì hiện nay vẫn còn 4 nước sản xuất súng trường K-56 bao gồm Sudan, Campuchia, Việt Nam và Albania. Hiện nay, Việt Nam đang nâng cấp chế độ giảm giật cho K-56. Thông số kỹ thuật cơ bản. K-56-1: 3.70 kg (8.16 lb) K-56-2: 3.94 kg (8.69 lb) K-56-1/56-2: 874 mm (34.4 in) có báng, 654 mm (25.7 in) gập báng.
Khánh An, Yên Khánh
Khánh An là một xã thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Địa lý. Xã Khánh An cách trung tâm thành phố Ninh Bình 8 km, có vị trí địa lý: Xã Khánh An có diện tích 7,40  km², dân số là 7.158 người, mật độ dân số đạt 967 người/km². Đây là một xã có đường quốc lộ 10 nối thành phố Ninh Bình với thị trấn Phát Diệm đi qua. Đây là địa phương có dự án Đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh đi qua. Hành chính. Xã Khánh An được chia thành 11 thôn: Bùi, Đường 10, Miễu 1, Miễu 2, Phú Hạ, Phú Thượng, Phú Trung, Triều, Văn Giáp, Yên Bắc, Yên Cống Lịch sử. Dưới thời Lê, ở Thạch Lỗ ngũ thôn, nay là các xã Khánh Dương, Khánh An, Khánh Thịnh thuộc 2 huyện Yên Khánh, Yên Mô các hậu duệ Tạ Đại Lang, Tạ Đại Thanh là Tạ Nhân Thọ, Tạ Nhân Niên, Tạ Nhân Khả đều có công lớn và được phong công hầu khanh tướng. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng chính phủ ban hành Quyết định 125-CP về việc sáp nhập xã Khánh An thuộc huyện Yên Khánh thuộc huyện Yên Khánh mới giải thể vào huyện Yên Mô thành lập huyện Tam Điệp. Ngày 4 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 59-CP về việc chuyển xã Khánh An thuộc huyện Tam Điệp về huyện Yên Khánh mới tái lập quản lý.
Suối nước nóng
Suối nước nóng thực chất là mạch nước ngầm được đun nóng bởi địa nhiệt của lớp vỏ Trái Đất. Có rất nhiều mạch nước nóng ở nhiều nơi trên lớp vỏ Trái Đất. Các khái niệm. Vẫn chưa có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi cho khái niệm suối nước nóng. Ví dụ, người ta có thể định nghĩa suối nước nóng là: Nguồn gốc của nhiệt năng suối nước nóng. Phần lớn nhiệt được tạo ra bởi sự phân rã của các nguyên tố phóng xạ tự nhiên. Ước tính 45 đến 90 phần trăm nhiệt thoát ra từ Trái Đất bắt nguồn từ sự phân rã phóng xạ của các nguyên tố chủ yếu nằm ở lớp phủ. ] Các đồng vị sinh nhiệt chính trên Trái Đất là kali-40, urani-238, urani-235 và thorium-232.
Khu vực dãy núi Greater Blue
Khu vực Dãy núi Greater Blue là một Di sản thế giới nằm ở Dãy núi Blue của New South Wales, Úc. Khu vực rộng đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2000. Mô tả. Khu vực này là một trong những vùng cao nguyên gồ ghề có những vách đá tuyệt đẹp, thung lũng sâu, vùng núi khó tiếp cận, những con sông và hồ nước đầy sự sống. Các loài động thực vật quý hiếm sống ở khu vực tự nhiên này liên quan đến một câu chuyện phi thường về sự cổ xưa của Úc. Đây là câu chuyện về sự tiến hóa của thảm thực vật bạch đàn độc đáo của Úc và các cộng đồng động thực vật có liên quan. Khu vực dãy núi Greater Blue có diện tích của cảnh quan rừng trên cao nguyên sa thạch, kéo dài từ Quận thương mại trung tâm Sydney. Tại đây bao gồm những vùng đất hoang vu rộng lớn và có diện tích tương đương với gần một phần ba của Bỉ, hoặc gấp đôi kích thước của Brunei. Nó bao gồm 8 khu vực được bao vệ, ngăn cách bởi một hành lang phát triển giao thông đô thị là: Khu bảo tồn Hang động Jenolan, Vườn quốc gia Dãy núi Blue, Wollemi, Yengo, Nattai, Kanangra-Boyd, Gardens of Stone, Các hồ Thirlmere.
Cá voi đầu tròn vây dài
Cá voi đầu tròn vây dài (danh pháp hai phần: Globicephala melas) là một loài cá trong họ Delphinidae. Cá voi đầu tròn vây dài sinh sống ở vùng ôn đới và cận Bắc cực của cả hai bán cầu, ở các vùng nước đại dương và một số vùng nước ven biển Bắc Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Biển Bắc. Trước đây tồn tại ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương, nơi ngày nay nó có vẻ như không còn hiện diện. Có dân số dưới Nam Cực ở Nam bán cầu, mà đạt đến 68 ° N xuất hiện để được phân lập từ dân số chưa được thực hiện north.1 tổng dân số ước tính toàn cầu. Số lượng cá voi này ước tính khoảng 750.000 cá thể ở đông bắc và trung tâm Bắc Đại Tây Dương và 200.000 trong dân số tiểu Nam Cực và 31 ở biển phía Tây Bắc. Trong năm 2008, nó đã được liệt kê vào danh sách đỏ của IUCN là một loài có đủ dữ liệu (dữ liệu thiếu DD) do thiếu thông tin về dân số toàn cầu và xu hướng của nó, cũng là khả năng của 2 hoặc nhiều loài.
Cá tầm Amur
Cá tầm sông Amur hay còn gọi là cá hoàng (danh pháp khoa học: Acipenser schrenckii) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá tầm. Loài này sinh sống duy nhất tại sông Hắc Long Giang nơi ranh giới đường biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc và Nga, có thể tìm thấy ở cả khu giáp ranh với Mông Cổ, Nhật Bản. Đặc điểm. Đây là loài cá ăn thịt, hung dữ, có tuổi thọ trung bình trên 50 năm, trọng lượng bình quân từ 150 kg đến 200 kg. Ngư dân Trung Quốc ở thôn Thắng Lợi trấn Ô Van huyện Gia Âm, Y Xuân, Hắc Long Giang đã bắt được một con cá hoàng có chiều dài 3 mét và trọng lượng hơn 250 kg, trước đó ở Trung Quốc người ta từng phát hiện cá thể cá hoàng nặng gần 1 tấn. Cá tầm Amur có thịt thơm ngon, dinh dưỡng phong phú tuy nhiên cá hoàng có bộ mặt kỳ dị và thân hình khổng lồ vì vậy nhiều người dân địa phương gọi con cá loại này là quái ngư. Cá hoàng xuất hiện từ 130 triệu năm trước và là một trong những sinh vật cổ còn tồn tại tới ngày nay, cá hoàng được coi như "hóa thạch sống" dưới nước, cùng thời với khủng long. Loài cá tầm Amur là một đặc sản của sông Hắc Long Giang, rất được ưa chuộng. Loài này có giá trị kinh tế rất cao. Mỗi con có trọng lượng lớn có thể bán được khoảng 22.000 USD. Cá hoàng vừa có thể chế biến thành nhiều món cao lương mỹ vị đồng thời lại có giá trị dược lý rất cao, đặc biệt đối với các đàn ông bị chứng bất lực hay rối loạn cương dương nên hiện nay loài cá này bị săn bắt quá mức.
Cá voi Bryde
Cá voi Bryde (danh pháp hai phần: Balaenoptera brydei) là một loài cá trong họ Cá voi lưng xám. Cá voi Bryde ăn cá bơi theo bầy, chẳng hạn như cá cơm, trích và cá sardine. Chúng phân bố rộng rãi trên khắp các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, với một riêng biệt nhỏ hơn, loài lùn được tìm thấy ở vùng nhiệt đới Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
Cá voi mõm khoằm Sowerby
Cá voi mõm khoằm Sowerby (danh pháp hai phần: Mesoplodon bidens) là một loài cá trong họ Ziphidae. Cá voi mõm khoằm Sowerby phân bố Đại Tây Dương phía tây và biển Na Uy ở phía đông Đại Tây Dương. Từ 200 đến 1500 mét sâu. Không có ước tính về dân số, tình trạng bảo tồn. Năm 1991, có khoảng 90 ghi nhận sự hiện diện loài này, 80 từ Bắc Đại Tây Dương phía đông và ít hơn 10 từ Tây Bắc Đại Tây Dương, phần lớn các ghi nhận sự hiện diện từ khắp nơi trên quần đảo Anh. Ngày 10 tháng 1 năm 2009, cá voi mỏ khoằm Sowerby cái đã được tìm thấy tại cảng Fethiye trên bờ biển Aegean của Thổ Nhĩ Kỳ, xa môi trường sống tự nhiên của nó.
Giuse Lê Đức Triệu
Giuse Lê Đức Triệu (1922 - 2007) là một linh mục công giáo người Việt, ông được biết đến nhiều với vai trò là một nhạc sĩ công giáo với bút hiệu là Hoài Đức. Ông nguyên là tổng thư ký thường trực Ủy ban Thánh nhạc toàn quốc, nguyên chủ tịch phong trào "Công lý hòa bình" Buôn Ma Thuột. Giám đốc Caritas giáo phận Buôn Ma Thuột. Tiểu sử. Giuse Lê Đức Triệu sinh ngày 01 tháng 07 năm 1922, tại xã Vỉ Nhuế, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Nay là xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, thuộc giáo xứ Vỉ Nhuế, giáo hạt Nam Định, tổng giáo phận Hà Nội. Từ năm 1933 đến năm 1939: ông theo học tại Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, Hà Nội. Từ năm 1945 đến năm 1953: ông học tại Đại chủng viện Xuân Bích, Hà Nội. Năm 1959: Giuse Lê Đức Triệu được thụ phong linh mục tại nhà thờ Jeanne d’ Arc Ngã Sáu, Chợ Lớn. Từ năm 1959 đến năm 1975: ông là giám luật, giáo sư âm nhạc, giáo sư tiếng Latinh. Ông dạy Toán, Lý, Hóa tại chủng viện Piô XII. Ông làm Giáo sư chủng viện Thừa sai Kontum. Quản lý Nhà Chung giáo phận Buôn Ma Thuột. Chủ tịch phong trào Công Lý Hòa Bình Buôn Ma Thuột. Giám đốc Caritas. Từ năm 1967 đến năm 1968 Ông là tổng Thư ký thường trực của ủy ban Thánh nhạc. Từ năm 1977 đến năm 1987: Ông tập trung cải tạo qua các trại: Mêvan, Tân Kỳ (Hà Tĩnh), Phú Sơn (Bắc Thái),Thanh Cẩm (Thanh Hóa). Từ năm 1999: Ông lâm trọng bệnh, an dưỡng tại nhà hưu các linh mục gốc Hà Nội. Linh mục Giuse Lê Đức Triệu qua đời: ngày 07 tháng 07 năm 2007. Sự nghiệp. Linh mục nhạc sĩ Hoài Đức, tức Cha cố Giuse Lê Đức Triệu, là một tên tuổi lớn trong nền Thánh Ca Việt Nam.. Ông được đánh giá là " một trong những tác giả viết những tác phẩm thánh ca mở đầu cho nền âm nhạc Công giáo Việt Nam" . Linh mục nhạc sĩ Phêrô Mai Tính (tức nhạc sĩ Mi Trầm), Trưởng ban Thánh nhạc giáo phận Nha Trang, đã viết về ông: Nhà thơ, MC Lê Đình Bảng- người có công sưu tầm, tìm hiểu Thánh ca Hoài Đức, trong bài phỏng vấn với nhạc sĩ Hoài Đức vào năm 1996 trên báo Công giáo và Dân tộc đã viết: Tác phẩm. Quá trình sáng tác của nhạc sĩ Hoài Đức có thể chia làm ba giai đoạn: Khi nói về những sáng tác của Hoài Đức, nhạc sĩ Duy Tân đã nói: Sáng tác Thánh nhạc. Tổng cộng trên 100 bài được in trong các tuyển tập "Cung Thánh" của nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh (1945 – 1975). Các bài hát nổi tiếng: Thánh Tâm Giêsu, Vua đất Việt. Bài hát được sáng tác năm 1945, đây là tác phẩm đầu tiên của nhạc sĩ Hoài Đức. Cao Cung Lên. Đây là bài hát được coi là một trong những bài Thánh ca Giáng sinh bất hủ ở Việt Nam,sáng tác năm 1946. Theo Lê Đình Bảng thì" "Cao Cung Lên là một hiện tượng, một trong những bản thánh ca Giáng Sinh được nhiều người biết, hát thuộc lòng và mến mộ nhất". Ghi nhận. Trước năm [[1975]], [[linh mục]] Hoài Đức là một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, đảm trách chức vụ quản lý Toà tổng [[Giám mục]] [[Buôn Ma Thuột|Buôn Mê Thuột]], nguyên [[tổng giám đốc điều hành|giám đốc]] [[Caritas Việt Nam|Caritas]] của [[giáo phận Ban Mê Thuột|giáo phận Buôn Mê Thuột]] – một tổ chức chuyên hoạt động xã hội trong lĩnh vực từ thiện, bác ái, đã đóng góp nhiều thành quả xã hội thiết thực cho người nghèo. Ngày [[8 tháng 9|08 tháng 09]] năm [[1970]], chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa|Việt Nam cộng hòa]] [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] (trước [[1975]]) đại diện là [[Giám mục]] [[giáo phận Ban Mê Thuột|giáo phận Buôn Mê Thuột]] và [[đại tá]] tỉnh trưởng của [[Đắk Lắk|Đắc Lắc]] đã trao tặng huy hiệu "Đệ Nhất Hạng Xã Hội Bội Tinh" cho nhạc sĩ Hoài Đức nhằm ghi nhận những đóng góp của ông cho xã hội lúc đó. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Nhạc sĩ Việt Nam|L]] [[Thể loại:Linh mục Công giáo người Việt|L]] [[Thể loại:Nhạc sĩ thánh ca Việt Nam|L]] [[Thể loại:Nhạc sĩ Công giáo|L]]
Vườn quốc gia hang động Naracoorte
Vườn quốc gia Hang động Naracoorte là một vườn quốc gia nằm gần thị trấn Naracoorte, Nam Úc thuộc khu vực du lịch Bờ biển Limestone, đông nam của tiểu bang Nam Úc. Nó được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1994 cùng với Riversleigh vì số lượng các hóa thạch trên khu vực rộng lớn. Khu vực bảo tồn có diện tích 6,6 km² với thảm thực vật còn sót lại, và 26 hang động nằm trong khu vực Di sản thế giới có diện tích 3,05 km². Trong số 28 hang động được biết đến ở trong vườn quốc gia chỉ có 4 hang động mở cửa cho công chúng tham quan. Các hang động khác được cách ly bởi chúng rất quan trọng đối với nghiên cứu khoa học và cũng để bảo vệ các hang động với những hóa thạch bên trong. Nhiều hang động còn chứa những thạch nhũ và măng đá ngoạn mục. Lịch sử. Các hang động nằm trong ranh giới ngày nay là vườn quốc gia lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1845 với việc khám phá ra hang Blanche. Năm 1885, Bộ Gỗ và Rừng Nam Úc đã bổ nhiệm một người trông giữ hang để tránh sự phá hoại. Năm 1916, việc kiểm soát một phần của khu bảo tồn rừng bao gồm nhiều hang động trong khu vực có diện tích khoảng 20 ha đã được chuyển giao sang cho Cục Di trú, Công cộng và Du lịch và nó được quản lý như một khu nghỉ dưỡng quốc gia cho đến năm 1972. Sự phát triển của khu nghỉ dưỡng quốc gia thành một điểm du lịch quan trọng trong khu vực, hỗ trợ rất nhiều bởi sự phát hiện vào năm 1969 tại hang Victoria với những hóa thạch động vật có xương sống Pleistocen lớn nhất từng được biết đến. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1972, nó được đổi tên thành Công viên bảo tồn hang động Naracoorte. Ngày 17 tháng 12 năm 1994, một phần của công viên bảo tồn có diện tích 300 hecta đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới cũng với địa điểm hóa thạch Riversleigh ở Queensland. Ngày 18 tháng 1 năm 2001, công viên bảo tồn hang động Naracoorte đã bị xóa bỏ và vùng đất mà nó chiếm giữ được tái lập thành một vườn quốc gia vì nó được coi là có ý nghĩa quốc gia bởi các đặc điểm tự nhiên với tên gọi mới là Vườn quốc gia Hang động Naracoorte. Ngày 21 tháng 5 năm 2007, nó trở thành một trong 15 địa điểm được công nhận là Di sản Quốc gia Úc. Ngày 17 tháng 5 năm 2017, vườn quốc gia được liệt kê trong Sổ bộ Địa danh Nam Úc với tên gọi Quần thể hang động Naracoorte.
Giải cứu binh nhì Ryan
Giải cứu binh nhì Ryan (tựa tiếng Anh: Saving Private Ryan) là một bộ phim chiến tranh sử thi của Mỹ năm 1998 do Steven Spielberg đạo diễn và được biên kịch bởi Robert Rodat. Lấy bối cảnh ở Cuộc tấn công bờ biển Normandy trong Thế chiến II, bộ phim được biết đến nhờ những hình ảnh khốc liệt của chiến tranh trong 27 phút mở đầu, nói về cuộc tấn công ở bãi biển Omaha trong trận Normandy. Bộ phim theo chân Đại úy John H. Miller (Tom Hanks) và đội của anh (Tom Sizemore, Edward Burns, Barry Pepper, Giovanni Ribisi, Vin Diesel, Adam Goldberg và Jeremy Davies) khi họ tìm kiếm một người lính nhảy dù, Binh nhất James Francis Ryan (Matt Damon), người đã có ba anh trai bị giết trong chiến tranh. Bộ phim đánh dấu sự hợp tác giữa DreamWorks Pictures, Paramount Pictures, Amblin Entertainment và Mutual Film Company, được DreamWorks phân phối ở Bắc Mỹ và Paramount phát hành ở thị trường quốc tế. Nhà sản xuất Mark Gordon đã đưa ra ý tưởng của Rodat, được lấy cảm hứng từ anh em nhà Niland, cho Paramount Pictures vào năm 1996. Spielberg, người thành lập DreamWorks Pictures, đã tham gia chỉ đạo dự án và cả DreamWorks và Paramount cùng bắt tay sản xuất và phát hành bộ phim. Sau khi các diễn viên trải qua khóa đào tạo được giám sát bởi cựu chiến binh hải quân Dale Dye, bộ phim đã bắt đầu bấm máy vào tháng 6 năm 1997 và kéo dài hai tháng. Những cảnh quay Ngày D của tác phẩm được quay ở bãi biển Omaha, Curracloe Strand, Ballinesker, ngay phía đông của Curracloe, County Wexford, Ireland và sử dụng các thành viên quân dự bị thuộc Quân đội Ireland làm lính bộ binh cho phân đoạn cuộc đổ bộ Normandy. Sau khi công chiếu vào ngày 24 tháng 7 năm 1998, tác phẩm đã nhận về vô vàn lời tán dương từ các nhà phê bình và khán giả vì diễn xuất của các diễn viên (đặc biệt là Hanks), chủ nghĩa hiện thực, phần hiệu ứng, nhạc nền, kịch bản và lối chỉ đạo của Spielberg, đồng thời còn được đưa vào danh sách mười tác phẩm điện ảnh hay nhất năm 1998. Đây là một thành công phòng vé, thu về 216,8 triệu USD trong nội địa, khiến nó trở thành bộ phim có doanh thu cao nhất năm 1998 tại Hoa Kỳ, và cao thứd hai trên toàn thế giới với doanh thu 480,8 triệu USD. "Giải cứu binh nhì Ryan" cũng đã thu về 44 triệu USD từ việc phát hành trên các băng video gia đình vào tháng 5 năm 1999. Bộ phim đã giành được nhiều giải thưởng, bao gồm Phim chính kịch hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất tại Giải Quả cầu vàng, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Hoa Kỳ, Hiệp hội đạo diễn Hoa Kỳ và Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh. Phim cũng được đề cử mười một hạng mục tại lễ trao giải Oscar lần thứ 71, và đã chiến thắng năm hạng mục, trong đó có Đạo diễn xuất sắc thứ hai cho Spielberg, Dựng phim xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc, Hòa âm hay nhất và Biên tập âm xuất sắc nhất, mặc dù đã để thua giải Oscar cho phim hay nhất vào tay "Shakespeare in Love". Đây cũng là một trong những đợt trao giải Oscar gây tranh cãi nhất cho đến thời điểm hiện tại. Kể từ khi phát hành, "Giải cứu binh nhì Ryan" đã được ca ngợi như một trong những bộ phim có ảnh hưởng nhất trong thể loại phim chiến tranh. Nó đã trở thành hình mẫu cho các bộ phim và trò chơi Thế chiến II sau này. Năm 2007, "Giải cứu binh nhì Ryan" được xếp hạng là phim thứ 71 trong Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ. Năm 2014, bộ phim đã được Viện lưu trữ phim quốc gia lưu giữ trong Thư viện Quốc hội, được xem là"có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử và thẩm mỹ". Nội dung. Bộ phim lấy bối cảnh chiến tranh thế giới thứ II,vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, quân đội Mỹ đổ bộ vào bờ biển Normandy trước sự kháng cự dữ dội của quân đội Đức. Xác lính Mỹ nằm đầy trên bãi biển, không ai có thể dám tiến lên bờ biển.Trước tình hình đó, Đại úy John H. Miller dẫn binh lính của ông ta chạy qua các lô cốt và giết nhiều lính Đức, mở đường cho quân Mỹ chiếm bờ biển. Nhờ thế quân Mỹ nhanh chóng kiểm soát được bờ biển trong tay. Ở Washington DC, Tướng quân George Marshall nhận được báo cáo rằng ba người trong số bốn anh em nhà Ryan đều tử trận trên chiến trường và mẹ của họ cũng nhận được bức điện tín tương tự như vậy. Cảm động trước hoàn cảnh nhà Ryan, Đại tướng Marshall ra lệnh một đội lính Mỹ đi tìm người con trai út James Francis Ryan về. Đội của Đại úy Miller là đội nhận lệnh tìm Ryan, ông ta dẫn bảy người lính đi theo là: Horvath, Reiben, Jackson, Mellish, Caparzo, Wade và Upham. Đội của Miller chỉ biết Ryan thuộc Sư đoàn Không vận 101, anh ta nhảy dù lạc đâu đó ở Normandy chứ họ không biết chính xác anh ta lạc ở đâu. Đến vùng ngoại ô Neuville, Caparzo bị lính bắn tỉa Đức bắn và sau khi bắn tên Đức đó cũng bị Jackson bắn lại. Sau đó, đội của Miller gặp nhóm lính dù từ Sư đoàn Không vận 101 do Đại úy Fred Hamill chỉ huy. Miller thấy một Binh nhì Ryan nhưng thực ra anh này là James Frederick Ryan chứ không phải James Francis Ryan. Miller cùng binh lính tiếp tục đi tìm James Francis Ryan, họ đến Vierville, nơi đây rất đông lính Mỹ, có người cho Miller biết đội của Ryan đang làm nhiệm vụ bảo vệ cây cầu ở Ramelle. Trên đường đến Ramelle, đội của Miller tiêu diệt một tổ súng máy Đức, Wade phải hi sinh do bị súng máy bắn trúng. Tên tù binh biệt danh Steamboat Willie van xin Miller tha mạng cho hắn, Miller lấy khăn bịt mắt Steamboat Willie lại rồi bắt hắn bước đi 1000 bước chân mới được tháo khăn ra. Reiben chứng kiến cái chết của hai đồng đội nên anh ta cảm thấy khó chịu và có ý định đào ngũ, Horvath đã cản Reiben lại, Reiben miễn cưỡng ở lại đội. Cuối cùng, đội của Miller tìm được Ryan khi họ đến Ramelle. Mặc dù Miller có kể Ryan nghe chuyện ba người anh của Ryan đều chết nhưng Ryan vẫn không chịu về, anh ta không muốn bỏ những đồng đội khác. Miller và binh lính của ông quyết định ở lại bảo vệ cây cầu giúp đội của Ryan. Tất cả lính Mỹ chuẩn bị đạn dược, súng máy, bom mìn để phục kích quân Đức. Một lúc sau, quân Đức đến nơi, chúng có năm mươi lính bộ binh đi chung với hai xe tăng Tiger, hai pháo tự hành Marder. Trận đánh bắt đầu diễn ra, quân Mỹ - quân Đức bắn giết nhau ác liệt, Miller cho lính bảo vệ Ryan bằng mọi giá. Quân Mỹ tiêu diệt một chiếc xe tăng, hai khẩu pháo và gần hết lính Đức, nhưng chúng lại kéo thêm lính đến, trong đó có cả Steamboat Willie. Lính Mỹ rút về bên kia cây cầu, Steamboat Willie bắn Miller đúng lúc ông tính cho nổ tung cây cầu. Chiếc xe tăng Tiger còn lại đang qua cầu thì bị máy bay P-51 Mustang của Mỹ bay ngang bắn nổ, lúc đó xe tăng Sherman cũng như rất nhiều lính Mỹ khác xuất hiện. Quân Đức sợ hãi bỏ chạy, Upham chạy ra bắn chết Steamboat Willie để trả thù cho Miller. Sau trận đánh này thì Horvath, Jackson, Mellish và Miller hi sinh; ba người duy nhất sống sót là Upham, Reiben và Ryan. Trước khi chết Miller có dặn Ryan sau này ráng sống tốt để không uổng công cả đội ông hi sinh vì anh ta. Nhiều năm sau, Ryan, lúc này đã già, đi đến nghĩa trang liệt sĩ cùng với vợ và con cháu. Sau một hồi lâu đứng trước mộ của Đại úy Miller, Ryan hỏi vợ rằng ông có sống tốt như lời dặn của đại úy Miller hay không, và bà ấy nói có. Tiếp nhận. Doanh thu. "Giải cứu binh nhì Ryan" đã được phát hành tại 2.463 rạp vào ngày 24 tháng 7 năm 1998 và thu về 30,5 triệu USD vào cuối tuần công chiếu, đứng ở vị trí số một và vẫn tiếp tục dẫn đầu trong bốn tuần tiếp theo cho đến khi bị "Blade" vượt mặt trong tuần thứ năm phát hành. Bộ phim đã thu về 216,5 triệu USD ở Mỹ và Canada và 265,3 triệu USD ở các lãnh thổ khác, nâng tổng doanh thu trên toàn thế giới lên đến 480,8 triệu USD. Đây là bộ phim Hoa Kỳ có doanh thu cao nhất năm 1998, trong khi "Armageddon" lại là bộ phim có doanh thu cao nhất năm 1998 trên toàn thế giới. Box Office Mojo ước tính rằng bộ phim đã bán được hơn 45,74 triệu vé tại Hoa Kỳ và Canada. Phản hồi. "Giải cứu binh nhì Ryan" đã nhận được sự tán dương từ các nhà phê bình và khán giả; phần lớn lời khen ngợi đều dành cho đạo diễn Spielberg, những cảnh chiến đấu chân thật, diễn xuất của các diễn viên, phần âm nhạc của John Williams, kỹ xảo hình ảnh, biên tập và kịch bản phim. Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được 'được chứng nhận tươi' là 93% dựa trên 139 đánh giá với điểm trung bình là 8,64/10. Sự đồng thuận nêu rõ"Với diễn xuất tuyệt vời của Tom Hanks, bộ phim chiến tranh thực tế của Steven Spielberg hầu như định nghĩa lại thể loại này". Bộ phim cũng có số điểm 91 trên 100 trên trang Metacritic dựa trên 35 bài phê bình. Nhiều hiệp hội phê bình, như Hội phê bình phim New York và Hiệp hội phê bình phim Los Angeles, đã chọn "Giải cứ binh nhì Ryan" là"Bộ phim của năm". Roger Ebert đã cho bộ phim bốn trên bốn sao và gọi đó là"một trải nghiệm tuyệt vời". Janet Maslin của Thời báo New York gọi đó là"bộ phim chiến tranh hay nhất mọi thời đại của chúng ta."Gene Siskel, nói rằng bộ phim"hoàn thành điều mà tôi được dạy là khó khăn nhất khi làm một bộ phim hành động phản chiến hay, ít nhất, một bộ phim không bằng cách nào đó tôn vinh hoặc làm trái sự thật về cuộc chiến". Giải thưởng. Bộ phim gặt hái được mười một đề cử tại tại Giải Oscar lần thứ 71, bao gồm Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Tom Hanks và Kịch bản gốc xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã chiến thắng năm hạng mục, bao gồm Quay phim xuất sắc nhất, Hòa âm hay nhất, Biên tập âm thanh xuất sắc nhất, Dựng phim xuất sắc nhất, và Đạo diễn xuất sắc nhất cho Spielberg; đây cũng là chiến thắng thứ hai của ông trong hạng mục đó. "Giải cứu binh nhì Ryan" đã để lọt giải Phim hay nhất vào tay "Shakespeare in Love", là một trong số ít bộ phim giành được giải Đạo diễn xuất sắc nhất mà không giành giải Phim hay nhất. Quyết định của Viện hàn lâm đã dẫn đến một làn sóng chỉ trích trong những năm gần đây, và nhiều người coi đây là một trong những buổi lễ gây tranh cãi nhất. Trong một cuộc thăm dò vào năm 2015, các thành viên của Viện hàn lâm nói rằng, nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ trao giải Oscar cho Phim hay nhất cho "Giải cứu binh nhì Ryan".
Carl Sagan
Carl Edward Sagan (; 9 tháng 11 năm 1934 – 20 tháng 12 năm 1996) là nhà thiên văn học, vật lý thiên văn, vũ trụ học, sinh học vũ trụ, tác giả sách, nhà phổ biến khoa học và là nhà phát ngôn khoa học người Mỹ. Đóng góp quan trọng nhất của ông là cho việc khám phá nhiệt độ bề mặt rất cao trên Kim Tinh. Tuy nhiên ông lại được biết đến nhiều nhất trong những nghiên cứu khoa học về sự sống ngoài Trái Đất, bao gồm cả việc chứng thực thí nghiệm tạo amino acid từ các chất hóa học cơ bản nhờ phóng xạ. Sagan đã thu thập những tin nhắn đầu tiên để gửi vào không gian: tấm thông điệp Pioneer và đĩa ghi âm vàng Voyage, các lời nhắn được gắn trên các con tàu vũ trụ để phòng trường hợp người ngoài Trái Đất có thể tìm thấy và xem chúng. Ông đã xuất bản hơn 600 bài báo khoa học, và là tác giả hoặc đồng tác giả của hơn 20 cuốn sách. Ông viết nhiều sách phổ biến khoa học như "Những con Rồng của vườn Địa Đàng" (The Dragons of Eden), " Não Broca" (Broca' brain), và "Đốm Xanh Mờ" (Pale blue dot). Đặc biệt, ông là đồng tác giả và người dẫn chuyện cho chuỗi chương trình truyền hình rất thành công của năm 1980 "" (Cosmos: A personal voyage). Là chuỗi chương trình đạt số lượt xem nhiều nhất trong lịch sử truyền hình công cộng Hoa Kỳ, Cosmos đã được ít nhất 500 triệu người ở hơn 60 quốc gia theo dõi. Cuốn sách "Vũ trụ" (Cosmos) cũng được viết đồng thời cùng với chương trình này. Sagan đã viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng "Liên lạc" (Contact), và đã được dựng thành phim cùng tên năm 1997. Các tài liệu của ông, khoảng 595,000 mục, hiện được lưu trữ ở thư viện Quốc hội - Hoa Kỳ. Carl Sagan luôn là người ủng hộ các câu hỏi còn nhiều nghi vấn trong khoa học và các phương pháp khoa học, tiên phong trong lĩnh vực sinh học ngoài Trái Đất, và thúc đẩy Chương trình nghiên cứu trí tuệ ngoài Trái Đất SETI. Ông dành gần như toàn bộ sự nghiệp của mình ở cương vị giáo sư trường ĐH Cornell, nơi ông điều hành phòng thí nghiệm nghiên cứu hành tinh. Sagan cùng với các tác phẩm của ông đã đạt được nhiều phần thưởng và huân chương danh giá, bao gồm NASA Distinguished Public Service Medal, National Academy of Sciences Public Welfare Medal (Huân chương cho những đóng góp trong khoa học đại chúng của Học viện Quốc gia), the Pulitzer Prize for General Non-Fiction (Giả Pulitzer cho tiểu thuyết không phải khoa hoc viễn tưởng) cho cuốn sách "Những con Rồng của Vườn Địa Đàng", còn với tác phẩm Cosmos, cũng giành 2 giải Emmy, giải Peabody và giải Hugo. Carl Sagan từng kết hôn 3 lần và có ba người con. Ông qua đời ngày 20 tháng 12 năm 1996 ở tuổi 62 vì viêm phổi. Sự nghiệp giáo dục và khoa học. Từ năm 1960 đến 1962, Sagan làm việc tại Viện Miller, Đại học California, Berkeley. Trong khoảng thời gian này, ông đăng tải một bài viết trên tập san Science bàn về khí quyển của Sao Kim vào năm 1961, đồng thời cộng tác với đội Mariner 2 của NASA, và đảm nhiệm chức vụ "Cố vấn Khoa học Hành tinh" cho RAND Corporation. Sau khi bài viết của Sagan được đăng tải trên tập san Science vào năm 1961, hai nhà thiên văn học Fred Whipple và Donald Menzel của Đại học Harvard đã mời Sagan tham dự một hội thảo chuyên đề tổ chức ở Harvard và sau đó đề nghị ông nhận chức giảng viên tại cơ quan này. Sagan mong muốn được phong làm phó giáo sư (assistant professor), Whipple và Menzel đã thuyết phục được Harvard đáp ứng nguyện vọng này. Tại đây, từ năm 1963 đến 1968, Sagan làm giảng viên, thực hiện nghiên cứu và cố vấn cho sinh viên đang học hệ sau đại học, đồng thời làm việc tại Đài Quan sát Vật lý thiên văn Smithsonian đặt tại Cambridge, Massachusetts. Năm 1968, Sagan không được nhận vào biên chế (tenure) của trường Harvard. Về sau ông cho biết đây là một quyết định rất bất ngờ. Có vài nguyên nhân được đưa ra, trong đó có việc Sagan quan tâm tới quá nhiều lĩnh vực (trong khi thường thường chuyên gia thành danh chỉ chuyên về một lĩnh vực hẹp. Thêm vào đó, có lẽ còn vì sự ủng hộ khoa học đại chúng mạnh mẽ của Sagan - đó là điều một số nhà khoa học coi là việc ít nhiều lợi dụng thành quả của người khác vì mục đích tư lợi cá nhân. Từ trước khi Sagan bị từ chối đưa vào biên chế khá lâu, nhà thiên văn học Thomas Gold của Đại học Cornell đã lôi kéo Sagan về làm việc tại Cornell, ở Ithaca, New York. Giờ đây, sau chuyện không may tại Harvard, Sagan liền đồng ý đề nghị của Gold và trong suốt gần 30 năm sau đó cho đến khi qua đời năm 1966, Sagan là thành viên của Đại học Cornell. Khác với Harvard, khoa thiên văn học của Cornell nhỏ hơn và dễ chịu hơn, nơi đây đã nhiệt tình chào đón Sagan như một ngôi sao đang nổi trong ngành. Sau hai năm làm phó giáo sư (associate professor), Sagan chính thức trở thành giáo sư của Đại học Cornell vào năm 1970 và nhận chức vụ điều hành Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hành tinh tại đây. Từ 1972 đến 1981, Sagan là phó giám đốc Trung tâm Vật lý vô tuyến và Nghiên cứu Vũ trụ (CRSR) tại Cornell. Năm 1976, ông trở thành Giáo sư Thiên văn học và Khoa học vũ trụ David Duncan - vị trí mà Sagan sẽ giữ suốt đời. Tên tuổi của Sagan gắn liền với chương trình chinh phục vũ trụ của Hoa Kỳ ngay từ những ngày đầu. Từ thập niên 1950 trở đi, Sagan làm cố vấn cho NASA, tại đây một trong những trách nhiệm của ông là đưa ra chỉ dẫn cho phi hành gia Apollo trước các chuyến bay tới Mặt Trăng. Saga đóng công góp sức cho nhiều sứ mệnh tàu thăm dò khám phá hệ Mặt Trời, sắp xếp các thí nghiệm trong nhiều chuyến thám hiểm. Ông là tác giả của tin nhắn vật lý đầu tiên gửi vào vũ trụ: một tấm dát vàng, gắn vào tàu thăm dò Pioneer 10, phóng năm 1972. Tàu Pioneer 11, mang theo phiên bản của tấm kim loại này, được phóng vào vũ trụ cùng năm đó. Sagan tiếp tục cải tiến thiết kế để tạo ra tin nhắn phức tạo nhất - Đĩa vàng Voyager, được hai tàu Voyager mang vào vũ trụ vào năm 1977. Sagan thường đứng lên phản đối những quyết định nhằm cung cấp tài chính cho chương trình tàu con thoi và Trạm Vũ trụ Quốc tế, tác động xấu tới các sứ mệnh robot. Thành tự khoa học. Cựu sinh viên của Sagan - David Morrison - mô tả thầy mình là "người giàu ý tưởng" và là bậc thầy về tranh luận vật lý dựa trên trực giác và tính nhẩm. Gerald Kuiper từng nói: "Một số người giỏi việc nghiên cứu chuyên môn một lĩnh vực lớn trong phòng thí nghiệm; số khác giỏi liên kết các ngành khoa học. Tiến sĩ Sagan thuộc nhóm thứ hai." Sagan là người góp công sức chủ yếu cho khám phá nhiệt độ bề mặt cực cao trên Sao Kim. Đầu thập niên 1960, không ai biết chắc điều kiện bề mặt của Sao Kim như thế nào, Sagan đã nêu ra các kịch bản trong một báo cáo mà sau này được đưa vào trong cuốn sách "Các hành tinh" (Planets). Quan điểm riêng của Sagan là Sao Kim rất khô và nóng, trái ngược với hình ảnh thiên đường mát lành mà nhiều người tưởng tượng ra. Sagan nghiên cứu tín hiệu vô tuyến từ Sao Kim và kết luận nhiệt độ bề mặt trên hành tinh này là 500°C. Với tư cách là nhà khoa học khách mời của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL), Sagan đóng góp nhiều cho các sứ mệnh Mariner đầu tiên đi tới Sao Kim, ông phụ trách phần thiết kế và quản lý dự án. Năm 1962, Mariner 2 đã xác nhận kết luận của ông về tình trạng bề mặt Sao Kim là đúng. Sagan là một trong những người đầu tiên đưa ra giả thuyết vệ tinh Titan của Sao Thổ có đại dương chứa hợp chất lỏng trên bề mặt và vệ tinh Europa của Sao Mộc sở hữu những đại dương nước ẩn dưới bề mặt. Điều này có thể khiến Europa trở thành nơi tiềm năng có khả năng sinh tồn. Đại dương nước ẩn dưới bề mặt Europa về sau đã được tàu thăm dò Galileo xác nhận một cách gián tiếp. Bí ẩn màn sương mù màu đỏ trên Titan cũng được giải quyết nhờ công của Sagan. Thì ra màn sương mù màu đỏ này là các phân tử hữu cơ phức tạp không ngừng rơi xuống bề mặt Titan. Sagan tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về khí quyển Sao Kim và Sao Thổ cũng như sự thay đổi các mùa trên Sao Hỏa. Ông cũng nhận ra biến đổi khí hậu là thảm họa nhân tạo đang dần hiện diện rõ, và so sánh hiện tượng này với việc Sao Kim biến thành hành tinh nóng bức, khắc nghiệt với sự sống do hiệu ứng nhà kính. Năm 1985, Sagan làm chứng trước Quốc hội Hoa Kỳ về việc hiệu ứng nhà kính sẽ thay đổi khí hậu toàn cầu. Sagan cùng đồng sự tại trường Cornel, Edwin Ernest Salpeter, đưa ra phỏng đoán về sự sống trên các đám mây của Sao Mộc, dựa trên phát hiện thành phần bầu khí quyển dày đặc của hành tinh này rất giàu phân tử hữu cơ. Ông nghiên cứu sự biến đổi về màu sắc đã được ghi nhận trên bề mặt Sao Hỏa và kết luận rằng đây không phải là sự thay đổi các mùa hay thảm thực vật như đa số vẫn đang tin, mà là sự chuyển dịch các luồng bụi bề mặt gây ra bởi gió bão. Sagan cũng nổi tiếng vì nghiên cứu về khả năng tồn tại sự sống ngoài Trái Đất, trong đó nổi bật là thí nghiệm chứng minh quá trình sản sinh amino acid từ các chất hóa học cơ bản dưới tác động của phóng xạ. Năm 1994, Sagan được trao Huân chương vì Phúc lợi Cộng đồng, giải thưởng cao quý nhất của Viện Khoa học Quốc gia dành cho "những đóng góp xuất sắc trong việc ứng dụng khoa học vì phúc lợi xã hội". Sagan không được chấp nhận làm thành viên của Viện này, lý do được đưa ra là các hoạt động của Sagan trên kênh truyền thông khiến nhiều nhà khoa học không ưa ông. Tính đến năm 2017, Sagan là nhà khoa học ngành SETI (tìm kiếm trí tuệ ngoài Trái Đất) được trích dẫn nhiều nhất và cũng là một trong những nhà khoa học hành tinh được trích dẫn nhiều nhất. Truyền bá khoa học trên TV. Năm 1980, Sagan là đồng biên kịch và người dẫn chuyện của xê-ri 13 tập chiếu trên đài PBS, từng giành nhiều giải thưởng: " (Vũ trụ: Một cuộc du hành cá nhân)" - xê-ri được xem nhiều nhất trong lịch sử truyền hình công cộng Hoa Kỳ tính cho tới năm 1990. Ít nhất 500 triệu người tại 60 quốc gia đã xem chương trình này. Cuốn sách "Vũ trụ (Cosmos)" do Sagan viết cũng được xuất bản đi kèm với xê-ri này. Vì đã là cây bút khoa học nổi tiếng từ trước với nhiều tác phẩm đắt khách, trong đó có cuốn "Rồng của Vườn Địa đàng (The Dragons of Eden)" giúp Sagan đoạt giải Pulitzer năm 1977, cho nên ông được mời viết kịch bản và dẫn chuyện cho chương trình này. Chương trình hướng tới khán giả đại chúng, Sagan tin rằng họ đã mất hứng thú với khoa học, một phần vì hệ thống giáo dục bức bối. Mỗi tập trong số 13 tập chú trọng vào một chủ đề hoặc một con người cụ thể, qua đó thể hiện được sự vận động đồng thời của vạn vật trong vũ trụ. Chương trình thảo luận rất nhiều chủ đề khoa học, gồm cả nguồn gốc sự sống và góc nhìn về vị trí của con người trên Trái Đất. Chương trình đã giành được giải Emmy, cùng với giải Peabody, và đưa Sagan từ một nhà thiên văn học ít người biết trở thành biểu tượng văn hóa đại chúng. Tạp chí Time đăng tải một câu chuyện về Sagan với hình ảnh của ông được đưa lên trang bìa ngay sau khi chương trình phát sóng, gọi ông là "nhà sáng tạo, biên kịch chủ đạo và người dẫn chuyện của chương trình". Năm 2000, "Cosmos" đã được phát hành dưới dạng bộ đĩa DVD cải tiến. "Hàng tỉ tỉ". Sau khi chương trình Cosmos lên sóng, Sagan gắn liền với câu nói cửa miệng "hàng tỉ tỉ (billions and billions)", dù thực ra ông chưa từng sử dụng cụm từ này trong xê-ri Cosmos. Thay vào đó, ông dùng cụm "billions upon billions". Richard Feynman, tiền bối của Sagan, đã sử dụng cụm từ "billions and billions" nhiều lần trong các "cuốn sách đỏ" ông viết. Tuy nhiên, việc Sagan thường xuyên dụng từ "billions v"à đặc biệt nhấn mạnh âm "b" (ông cố tình làm vậy, thay vì dùng cách nói "billions with a b (từ billion có chữ b", thường dùng để phân biệt từ "billion" với từ "illinois") đã khiến ông trở thành đối tượng ưa thích của các danh hài, trong đó có Johnny Carson, Gary Kroeger, Mike Myers, Bronson Pinchot, Penn Jillette và Harry Shearer.
Danh sách đĩa nhạc của Nicki Minaj
Nữ rapper và ca sĩ người Mỹ Nicki Minaj đã phát hành 3 album phòng thu, 3 album tổng hợp, 3 mixtape, 96 đĩa đơn (trong đó bao gồm 63 đĩa đơn với tư cách là nghệ sĩ góp mặt) và 15 đĩa đơn quảng bá. Sau khi bị thu hút với giới âm nhạc và sự nghiệp diễn xuất ở Thành phố New York, Minaj cuối cùng chọn rapper là nghề nghiệp chính của cô. Tài năng của cô được khám phá bởi nam rapper Lil Wayne và cô đã kí hợp đồng với hãng thu âm Young Money Entertainment—một công ty con của hãng Cash Money Records với việc phân phối âm nhạc được đảm nhiệm bởi Republic Records—vào năm 2009. Đĩa đơn độc tấu đầu tiên của Minaj, "Your Love", đạt vị trí thứ 14 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 của Mỹ và đứng đầu bảng xếp hạng Hot Rap Songs của tạp chí "Billboard", một thành tựu đã làm cho Minaj trở thành nghệ sĩ nữ đứng đầu bảng xếp hạng với tư cách là nghệ sĩ độc tấu kể từ năm 2002. Ba đĩa đơn tiếp theo của cô, "Check It Out", "Right Thru Me" và "Moment 4 Life", đều lọt vào top 40 trên "Billboard" Hot 100. Album phòng thu đầu tay của Minaj, "Pink Friday", được phát hành vào tháng 11 năm 2010, đã đứng đầu bảng xếp hạng "Billboard" 200 của Mỹ. Đĩa đơn thứ năm của album, "Super Bass", đứng ở vị trí thứ ba trên "Billboard" Hot 100 và vươn lên top 10 trong các bảng xếp hạng ở nhiều quốc gia. Album phòng thu thứ hai của Minaj, ' (2012), được xếp hạng lần đầu tiên ở vị trí cao nhất trên "Billboard" 200. Album cũng đồng thời lọt vào bảng xếp hạng UK Albums Chart (Liên hiệp Anh) ở vị trí thứ nhất, làm cho Minaj trở thành nữ rapper có vị trí xếp hạng cao nhất trong lịch sử của bảng xếp hạng. Đĩa đơn đầu tiên của album, "Starships", xếp hạng ở vị trí thứ năm trên "Billboard" Hot 100 và vươn lên top 10 ở nhiều quốc gia. Một phiên bản album mở rộng của "Pink Friday: Roman Reloaded" được phát hành vào tháng 11 năm 2012, có thêm tiêu đề phụ là '. Album phòng thu thứ ba của cô được phát hành vào năm 2014, có tựa là "The Pinkprint", được xếp hạng lần đầu tiên ở vị trí thứ hai trên "Billboard" 200. Đĩa đơn thứ hai của album, "Anaconda", đứng ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và là đĩa đơn có vị trí xếp hạng cao nhất tại Mỹ của cô cho đến nay. Các đĩa đơn khác, gồm "Only" và "Truffle Butter" đã lọt vào top 20 trên "Billboard" Hot 100. Năm 2014, Minaj chia sẻ vị trí hát chính trong đĩa đơn "Bang Bang" cùng với Jessie J và Ariana Grande. Bài hát đã giúp Minaj đạt được vị trí đầu tiên ở Liên hiệp Anh (L. H. Anh) và vị trí thứ ba ở Mỹ. Kể từ năm 2010, Minaj đã tích lũy hơn 92 hạng mục trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 (kể cả các hạng mục bài hát mà cô có vai trò là nghệ sĩ góp mặt), làm cho cô là người có nhiều hạng mục nhất so với các nghệ sĩ nữ khác với tất cả các thể loại nhạc. Ngoài ra, cô đã kiếm về cho mình 16 đĩa đơn nằm trong top 10 trong các bảng xếp hạng trong sự nghiệp âm nhạc, là số đĩa đơn cao nhất so với các nữ rapper khác.
Nữ hoàng băng giá (nhạc phim)
Frozen: Original Motion Picture Soundtrack là album nhạc phim của bộ phim hoạt hình Disney năm 2013, "Nữ hoàng băng giá". Phần nhạc phim bao gồm mười ca khúc gốc do Kristen Anderson-Lopez và Robert Lopez viết và biên soạn, cùng với hai mươi hai bản nhạc nền do Christophe Beck sáng tác. Album có sự góp mặt của bài hát "Let It Go" (do Idina Menzel thể hiện), ca khúc này đã nhận được nhiều lời khen ngợi về mặt chuyên môn, và cả các đề cử cho các Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất và Giải thưởng sự lựa chọn của nhà phê bình cho ca khúc trong phim hay nhất. Walt Disney Records phát hành hai phiên bản của album nhạc phim này vào ngày 25 tháng 11 năm 2013; một bản một đĩa và một bản deluxe mở rộng hai đĩa (gồm các bản thử nghiệm của các ca khúc và các bản nhạc nền trong phim; các bản thu âm outtake không được sử dụng, và những bản nhạc không lời của các ca khúc chính trong phim). Vào ngày 21 tháng 10 năm 2013, đĩa đơn duy nhất của album nhạc phim, một bản hát lại (cover) của ca khúc "Let It Go" do Demi Lovato thể hiện đã được phát hành. Các bản phát hành sau này của album có đi kèm với một số bản dịch ra tiếng nước ngoài của ca khúc "Let It Go". Bảng xếp hạng. Album nhạc phim "Nữ hoàng băng giá" có màn ra mắt tại vị trí thứ 18 trên bảng xếp hạng Hoa Kỳ Billboard 200, trở thành album nhạc phim hoạt hình có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng này kể từ bộ phim "Cars" năm 2006. Album đã leo lên vị trí thứ 10 và trở thành album nhạc phim hoạt hình thứ mười trong lịch sử lọt vào top 10. Sau đó album đã tiếp tục leo lên vị trí thứ 4 trở thành album nhạc phim hoạt hình có thứ hạng cao nhất kể từ phim "Pocahontas" cũng của chính Disney năm 1995.
Tôn giáo ở Thái Lan
Phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở Thái Lan, với 95% dân số là Phật tử. Không có quốc giáo chính thức nào trong hiến pháp Thái Lan đảm bảo quyền tự do tôn giáo cho mọi công dân Thái Lan, mặc dù luật pháp yêu cầu nhà vua phải là một Theravada Phật giáo. Tôn giáo chính được thực hành ở Thái Lan là Phật giáo, nhưng có một sự phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ giáo với một lớp brahmin có chức năng sacerdotal. Dân số người Thái gốc Hoa lớn cũng theo tôn giáo dân gian Trung Quốc, bao gồm Đạo giáo. Phong trào tôn giáo của Trung Quốc Nhất Quán đạo (tiếng Thái: "Anuttharatham") lan sang Thái Lan vào những năm 1970 và nó đã phát triển rất nhiều trong những thập kỷ gần đây, xung đột với Phật giáo; năm 2009, báo cáo cho biết mỗi năm có 200.000 người Thái chuyển sang đạo này. Nhiều người khác, đặc biệt là trong nhóm dân tộc Isan, thực hành tôn giáo dân gian Tai. Một dân số Hồi giáo đáng kể, chủ yếu là Mã Lai Thái, đặc biệt hiện diện ở các khu vực phía nam. Nhân khẩu học. Theo số liệu điều tra dân số chính thức, khoảng 95% người Thái theo đạo Phật. Tuy nhiên, đời sống tôn giáo của quốc gia này phức tạp hơn số liệu thống kê. Trong số đông đảo người Thái gốc Hoa, hầu hết những người theo Phật giáo đã hòa nhập vào truyền thống Nguyên thủy đông đảo, chỉ có một thiểu số không đáng kể là theo Phật giáo Trung Quốc. Mặt khác, một bộ phận lớn người Thái gốc Hoa vẫn duy trì việc thực hành tôn giáo dân tộc Trung Quốc, bao gồm Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo cứu tinh của Trung Quốc (như Yiguandao và Đức giáo). Mặc dù được thực hành tự do, các tôn giáo này không được công nhận chính thức, và những người theo họ được coi là Phật tử Nguyên thủy trong các nghiên cứu thống kê. Ngoài ra, nhiều người Thái và Isan thực hành tôn giáo dân gian Tai của dân tộc mình. Người Hồi giáo là nhóm tôn giáo lớn thứ hai ở Thái Lan với 4% đến 5% dân số. Các tỉnh cực nam của Thái Lan - Pattani, Yala, Narathiwat và một phần của Songkhla và Chumphon - có số lượng lớn người Hồi giáo, bao gồm cả người Thái và Mã Lai. Người theo đạo Công giáo, chủ yếu là người Công giáo Rôma, chỉ chiếm hơn 1% dân số. Một cộng đồng nhỏ nhưng có ảnh hưởng của người Sikh ở Thái Lan và một số người theo đạo Hindu, chủ yếu sống ở các thành phố của đất nước và tham gia vào lĩnh vực thương mại bán lẻ. Ngoài ra còn có một cộng đồng Do Thái nhỏ ở Thái Lan, có từ thế kỷ 17.
Bảo tàng Vùng Nadnotecka Wiktor Stachowiak
Bảo tàng Vùng Nadnotecka Wiktor Stachowiak (tiếng Ba Lan: "Muzeum Ziemi Nadnoteckiej im. Wiktora Stachowiaka") là một bảo tàng nằm trong một tòa nhà lịch sử tọa lạc tại số 7 và 36a Phố Żeromskiego, Trzcianka, Ba Lan. Lược sử hình thành. Bảo tàng Vùng Nadnotecka Wiktor Stachowiak được thành lập vào năm 1924, khi Trzcianka thuộc về Đức. Bảo tàng được thành lập theo khởi xướng của Ryszard Hessler và Carl Schulz. Trụ sở đầu tiên của Bảo tàng là một tòa nhà trong Khu phức hợp trường học hiện nay tại Quảng trường Sienkiewicz. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng nghìn hiện vật thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng (bao gồm cả thời tiền sử, thời Trung cổ và thời hiện đại) đã bị tẩu tán. Nhờ những nỗ lực của Wiktor Stachowiak, nhiều hiện vật được thu hồi, và Bảo tàng hoạt động trở lại vào ngày 22 tháng 7 năm 1958. Năm 1971, trụ sở của Bảo tàng chuyển đến Nhà Thị trưởng lịch sử tại số 36a Phố Żeromskiego. Năm 1999, Bảo tàng mở rộng trưng bày ở phía đối diện của con phố, tại số 7 Phố Żeromskiego. Triển lãm. Hiện nay, bộ sưu tập của Bảo tàng Vùng Nadnotecka Wiktor Stachowiak có hơn 25.000 hiện vật, được chia thành: khảo cổ học (từ năm 4400 trước Công nguyên đến năm 700 sau Công nguyên), lịch sử (từ tài liệu về Zygmunt II của Ba Lan đến thời kỳ phân chia, và bưu thiếp từ đầu thế kỷ 20), dân tộc học (đồ mộc cũ và công cụ đồng), nghệ thuật và mỹ thuật ứng dụng, giáo dục (thiết bị giảng dạy), và các thứ khác.
Eviota minuta
Eviota minuta, tên thông thường là minute dwarfgoby, là một loài cá biển thuộc chi "Eviota" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2014. Từ nguyên. Từ "minuta" trong danh pháp của "E. minuta" bắt nguồn từ "minutus" trong tiếng Latinh, nghĩa là "bé nhỏ", ám chỉ kích thước bé nhỏ của loài cá này. Phạm vi phân bố và môi trường sống. "E. minuta" đã được thu thập rải rác ở một số vùng biển thuộc Philippines, gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng 4,6 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở "E. minuta" là 1,35 cm. Màu sắc khi còn sống của các mẫu vật không được ghi chép lại. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia vây mềm ở vây lưng: 8; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 8; Số tia vây mềm ở vây ngực: 14 - 15.
Molybden(III) bromide
Molybden(III) bromide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học MoBr3. Nó là một chất rắn màu đen không hòa tan trong hầu hết các dung môi nhưng hòa tan trong các dung môi cho như pyridin. Điều chế. Molybden(III) bromide được tạo ra bởi phản ứng của nguyên tố molybden và brom ở . Nó cũng có thể được điều chế từ quá trình khử molybden(IV) bromide bằng kim loại molybden, khí hydro hoặc một hydrocarbon. Cấu trúc. Nó có cấu trúc bao gồm chuỗi vô hạn các khối bát diện chia sẻ mặt với các tiếp điểm Mo–Mo ngắn và dài xen kẽ. Cấu trúc tương tự xuất hiện trong các tribromide của rutheni và tecneti.<ref name="DOI10.1016/0022-4596(72)90156-9">Dietrich Babel: "Die Verfeinerung der MoBr3-Struktur (Refinement of the MoBr3-Structure)" In: "Journal of Solid State Chemistry." 1972, 4, tr. 410–416, .</ref> Ngược lại, trong pha nhiệt độ cao của titan(III) iodide, sự phân tách Ti—Ti là bất biến. Hợp chất khác. MoBr3 còn tạo một số hợp chất với NH3, như MoBr3·3NH3 là chất rắn màu vàng sáng. MoBr3 còn tạo một số hợp chất với CO(NH2)2, như MoBr3·3CO(NH2)2 là tinh thể cam, tan trong dung dịch urê kèm sự phân hủy, không tan trong nước và các dung môi hữu cơ phổ biến hay MoBr3·6CO(NH2)2 là tinh thể hình trụ màu lục nhạt-vàng nhạt, tan trong nước kèm sự phân hủy, không tan trong các dung môi hữu cơ phổ biến.
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 khu vực châu Á (Vòng 4)
Vòng 4 cho vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 khu vực châu Á chỉ diễn ra một trận đấu vào ngày 7 tháng 6 năm 2022. Vòng này ban đầu theo kế hoạch là thể thức hai lượt vào ngày 11 và 16 tháng 11 năm 2021, nhưng AFC đã đồng ý, phối hợp với FIFA, thay đổi các ngày và thể thức vào tháng 11 năm 2020 do đại dịch COVID-19 tại châu Á. Thể thức. Trong vòng 4, hai đội đứng thứ ba từ vòng 3 sẽ thi đấu trong một trận play-off vào ngày 7 tháng 6 năm 2022 tại Qatar. Đội thắng sẽ giành quyền vào vòng play-off liên lục địa đối đầu với đội đứng thứ năm từ khu vực Nam Mỹ. Địa điểm và giờ bóng lăn cho trận đấu này sẽ được công bố sau. Trận đấu. <onlyinclude> </onlyinclude>
InterContinental Hanoi Landmark 72
InterContinental Hanoi Landmark 72 là một khách sạn InterContinental tại Hà Nội. Khách sạn này toạ lạc tại các tầng trên cùng của Keangnam Hanoi Landmark Tower. Ở độ cao 346m, đây là khách sạn cao nhất Hà Nội và là một trong những khách sạn cao nhất thế giới. Vị trí. InterContinental Hanoi Landmark 72 toạ lạc tại Mỹ Đình, quận Nam Từ Liêm, gần Trung tâm Hội nghị Quốc gia và Bảo tàng Hà Nội. Là một phần của Keangnam Hanoi Landmark Tower, khách sạn này chiếm từ tầng 62 đến 71 của tòa nhà cao thứ nhì Việt Nam. Tiện ích. Tại độ cao 346m, InterContinental Hanoi Landmark72 là khách sạn cao nhất Hà Nội. Khách sạn sở hữu 359 phòng khách sang trọng, với 34 phòng suites, trải dài từ tầng 63 đến tầng 70 của tòa nhà. Tất cả các phòng và suites đều có cửa kính thông suốt, mở ra tầm nhìn toàn cảnh thành phố Hà Nội từ trên cao. 4 nhà hàng và bar (The Hive Lounge, 3 Spoons, Stellar Steakhouse và Q Bar) tại tầng 62 và 62M của khách sạn đem đến không gian sang trọng, sáng tạo và các nền ẩm thực phong phú. InterContinental Hanoi Landmark72 còn là điểm đến hấp dẫn mới cho các hội nghị và sự kiện tại Hà Nội, với 14 phòng họp linh hoạt và phòng khánh tiệc (Grand Ballroom) có sức chứa tới 1,000 khách.
Rigoberto López Pérez
Pascual Rigoberto López Pérez (13 tháng 5 năm 1929 – 21 tháng 9 năm 1956) là một nhà thơ, nhà soạn nhạc và nhạc công người Nicaragua. Ông là người đã nổ súng bắn chết nhà độc tài của Nicaragua là Anastasio Somoza García. Ông được chính phủ Nicaragua phong làm Anh hùng dân tộc theo sắc lệnh số 825 ngày 21 tháng 9 năm 1981. Những thông điệp của ông là cảm hứng cho một số tác phẩm của một số nhóm nhạc ví dụ như Dead Prez. Thiếu thời. Pascual Rigoberto López Pérez sinh ngày 13 tháng 5 năm 1929 tại León, Nicaragua. Ông là con trai của Soledad López và Francisco Pérez. Lớn lên ông theo học tại Trường Chẩn tế Thánh Gioan của Thiên chúa ("Hospicio de San Juan de Dios") và chịu sự dạy dỗ của người cha đỡ đầu là linh mục Agustín Hernández. Tại trường này ông học nghề may. Sau đó ông học tại Trường Thương mại Silviano Matamoros ("Escuela de Comercio Silviano Matamoros") và theo học nghề biên tập và đánh máy chữ. López là bạn trai của Amparo Zelaya Castro, người chị em của nhà báo Armando Zelaya, người lái xe chở López đến "Casa del Obrero" để López ám sát Somoza. Sự nghiệp âm nhạc. López xuất bản bài thơ đầu tiên của mình "Lời thú tội của người lính" ("Confesión de un Soldado") vào năm 1946 lúc 17 tuổi. Năm 1948 ông cùng với 5 người bạn thành lập nhóm nhạc "Buenos Aires", trong đó ông làm nhạc công vĩ cầm - loại nhạc cụ và López vừa mới học cùng năm. López biên soạn âm nhạc, phần lớn là nhạc lãng mạn, ví dụ như các bài "Claridad" và "Si el vino me hace llorar", được nhóm "Buenos Aires" biểu diễn và phát sóng trên đài phát thanh Radio Colonial. Âm nhạc của Lopéz chịu nhiều ảnh hưởng của các văn nghệ sĩ như Beethoven, hay Rubén Darío - một nhà thơ Nicaraguan được tôn phong là "Cha đẻ của chủ nghĩa Hiện đại". Lopéz thường tham gia đồng sáng tác các tác phẩm được xuất bản như "El Cronista" và "El Centroamericano". Hoạt động chính trị. Mối quan hệ yêu đương với Zelaya Amparo Castro khiến López thường xuyên đến thủ đô Managua chơi, và ở đó ông dần dần tham gia vào các hoạt động chống lại nền độc tài của Anastasio Somoza Garcia. Tại đây ông tham gia Đảng Tự do Độc lập ("Partido Liberal Independiente") - tổ chức chính trị hình thành bởi những người bất mãn với chính quyền độc tài của Somoza và Đảng Tự do Quốc gia ("Partido Liberal Nacionalista") ủng hộ ông ta. Từ năm 1951 đến 1956 López sống ở nước ngoài, ông sang El Salvador để bắt liên lạc với những người cách mạng đang lập kế hoạch ám sát nhà độc tài Somoza nhân lúc ông ta đang tiến hành một chiến dịch vận động tranh cử sâu rộng cho mình. Tuy nhiên ông vẫn thường xuyên trở về Nicaragua để sắp xếp chuyện gia đình, chuyện cá nhân và cả chuyện tình cảm với Amparo, đồng thời nắm bắt tình hình chính trị trong nước. Trong thời gian này ông quen biết với các nhạc sĩ và nhà thơ từ nhiều nước khác, trong đó bao gồm nhà văn El Salvador là Juan Felipe Toruno. Năm 1954, lực lượng Vệ binh quốc gia ("Guardia Nacional") giết chết hai người bạn của López là Luis và Adolfo Báez Bone cùng với nhiều người khác khi một nhóm người tổ chức ám sát Somoza nhưng không thành. Rigoberto gặp mẹ của hai người này, bà Ruth Bone, và trở thành bạn thân của bà. Bắn chết nhà độc tài Somoza. Rigoberto López cho rằng cách duy nhất để chấm dứt nền cai trị của Somoza đó là phải giết chết nhà độc tài này. Ông tính chọn ngày Quốc khánh 14 tháng 9 năm 1956 để ám sát Somoza tại Hacienda San Jacinto, nhưng hủy bỏ vì lo sợ sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng của nhiều người vô tội trong cuộc tuần hành của sinh viên ngày đó. Ngày khởi sự được dời lại vào ngày 21 tháng 9, lúc Somoza tới León để tiến hành tranh cử. Ngày 17 tháng 9 năm 1956, López đến thủ đô Managua và chuẩn bị kế hoạch hạ sát Somoza. Ông gửi thư thông báo với Manuel Díaz y Sotelo, người bạn thân có cùng tư tưởng, và ngày hôm sau đón tàu trở về quê nhà León. Ngày 21 tháng 9, trước khi thực hiện vụ ám sát, ông đến bên cạnh mẹ mình, đọc to bài thơ "Lời thú tội của người lính", rồi vận chiếc sơ mi trắng và quần xanh lên đường. Mẹ của ông sau này kể lại lý do ông mặc bộ đồ trắng-xanh như vậy là vì ông muốn chết khi mặc quần áo mang màu cờ tổ quốc Nicaragua. López được nhà báo Armando Zelaya, người anh em của bạn gái mình, chở đến Casa del Obrero, nơi nhà độc tài Somoza đang dự một bữa tiệc. Ông rút khẩu súng lục Smith and Wesson cỡ 0,38 rồi nã 5 phát đạn vào ngực Somoza, 4 trong 5 phát đó dính trúng người nhà độc tài, khiến ông tạ bị thương nặng phải chở một đến bệnh viện quân sự Hoa Kỳ ở Vùng Kênh đào Panama rồi chết tại đó vào ngày 29 tháng 9. López cũng nhận phải một tràng đạn từ những cận vệ của Somoza và chết ngay tại chỗ. Chính quyền nhà Somoza phản ứng ngay. Mẹ của Rigoberto, cùng những anh chị em của ông là Salvador và Margarita, bạn gái Amparo Zelaya và một người bạn khác là María Lourdes đều bị bắt giam, tra tấn và cầm tù tại khu phức hợp nhà ngục "La Aviación" (nay là khu phức hợp "Ajax Delgado"). Trong sách "La saga de los Somoza" xuất bản năm 2000 của Trung uý Agustín Torres Lazo, công tố viên của phiên tòa của Hội đồng chiến tranh đã kết án tù 16 người trong vụ án đó, thì thi thể của Rigoberto López Pérez được đưa về thủ đô và chôn trong khuôn viên trường Đại học Rubén Darío (nay là Đại học Tự trị Quốc gia Nicaragua Thống nhất - Managua) để nấm mồ của ông không trở thành địa điểm "linh thiêng" cho phe đối lập tụ tập. Chính phủ Somoza cũng mở một chiến dịch bôi xấu López, cáo buộc ông đã say rượu khi tiến hành ám sát. Ảnh hưởng và vinh danh. Theo đại tá về hưu Lenin Suarez, hành động của Rigoberto López Pérez được cho là đã gây ảnh hưởng lớn đến và củng cố ý chí chiến đấu những người đấu tranh lật đổ chế độ Somoza. Ở Ý, trong thập niên 1970, Marcello De Angelis đã viết bài hát "Nhà thơ" ("Il poeta") để ca ngợi López. Khi cuộc khởi nghĩa của Mặt trận giải phóng dân tộc Sandino ("Frente Sandinista de Liberación Nacional - FSLN") nổ ra và lan rộng khắp đất nước, một trong những trung tâm chỉ huy của Mặt trận được đặt tên là "Rigoberto López Pérez". Tuy nhiên trung tâm chỉ huy này đã bị tiêu diệt vào tháng 4 năm 1979 trong một cuộc càn quét đẫm máu của quân chính phủ, các thành viên Oscar Perez Cassar, Roger Deshon, Araceli Perez Darias, Idania Fernandez, Carlos Manuel Jarquin and Edgard Lang Sacasa đều hi sinh. Có điều hành động của quân chính phủ càng khiến người dân bất mãn và đẩy mạnh sự sụp đổ của chính quyền Somoza. Vào tháng 7, cuộc cách mạng Sandinista thành công, và sân vận động quốc gia Nicaragua tại thủ đô Managua được đặt tên là sân vận động Lopéz. Tuy nhiên vào ngày 20 tháng 11 năm 1998, nhân kỷ niệm 50 năm thành lập sân, tổng thống Arnoldo Alemán ký sắc lệnh đổi tên sân thành Sân vận động Quốc gia Dennis Martínez ("Estadio Nacional Dennis Martínez") theo tên của một vận động viên nổi tiếng của Nicaragua. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2006, một đài tưởng niệm được xây dựng Managua, tại bùng binh Rigoberto López Pérez nhằm vinh danh nhà thơ này, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của ông.
Anatolanthias apiomycter
Anatolanthias apiomycter là loài cá biển duy nhất thuộc chi Anatolanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1990. Phân bố và môi trường sống. "A. apiomycter" có phạm vi phân bố ở Đông Nam Thái Bình Dương. Loài cá này được phát hiện dọc theo khu vực sống núi Nazca; chúng sống ở độ sâu khoảng từ 100 đến 168 m
Solihull Moors F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Solihull Moors là một câu lạc bộ bóng đá đến từ Solihull, West Midlands, Anh. Đội được thành lập vào năm 2007 bởi sự hợp nhất của Moor Green (thành lập năm 1901) và Solihull Borough (thành lập năm 1953). Câu lạc bộ hiện đang thi đấu tại và thi đấu các trận sân nhà tại Damson Park. Lịch sử. Vào ngày 10 tháng 7 năm 2007, câu lạc bộ được chính thức công bố là đã được sáp nhập và các chi tiết về logo câu lạc bộ và bộ trang phục mới cho mùa giải sắp tới được phát hành. Ở một trong những trận đầu tiên, Solihull Moors đã đánh bại Birmingham City Dự bị. Lịch thi đấu này diễn ra hàng năm như một phần của thỏa thuận cho phép Birmingham chơi các trận dự bị của họ trên sân của Solihull. Với việc đại tu đội bóng dự bị ở Anh, các đội phát triển của Birmingham City giờ chơi cố định tại các lò đào tạo của câu lạc bộ của họ thay vì ở Solihull Moors. Đội nữ của Birmingham City của FA Women's Super League đã chơi trên sân nhà kể từ năm 2014. Vào tháng 11 năm 2007, câu lạc bộ thông báo hợp tác với câu lạc bộ rugby union National Division One Pertemps Bees. Thỏa thuận này nhằm mục đích để hai câu lạc bộ chia sẻ cơ sở vật chất của Damson Park cũng như việc hình thành các dự án cộng đồng và huấn luyện cho Solihull. Điều này cuối cùng đã được chính thức đưa ra vào năm 2010. Thỏa thuận chia sẻ sân đã kết thúc vào năm 2012, khi Bees rớt xuống hạng 4 của English Rugby Union. Là di tích của thỏa thuận hợp tác ngắn hạn đó, một trong những khán đài có chỗ ngồi tại Damson Park của Solihull Moors là một phần của khán đài chính của Bees từ sân nhà cũ của họ tại Sharmans Cross Road. Trong suốt Conference North mùa giải 2007-08, người quản lý khi đó là Bob Faulkner đã giữ nguyên đội hình đã từng đại diện cho Moor Green mùa trước, với một số sự bổ sung vào mùa hè từ những nơi khác. Không có cầu thủ nào của Solihull Borough được giữ lại. Bàn thắng đầu tiên của Solihull Moors tại giải đấu là bàn gỡ hòa do công của Darren Middleton từ cự ly xa, trong trận đấu chứng kiến ​​Moors ghi điểm đầu tiên tại giải đấu, trận hòa 1-1 trên sân nhà với Barrow A.F.C. trong trận đấu đầu tiên. Moors đã phải đợi hai tuần nữa để có chiến thắng đầu tiên, đánh bại Gainsborough Trinity 3-1 trên sân nhà. Câu lạc bộ đã kết thúc mùa giải đầu tiên ở vị trí thứ 17 tại Conference North, đảm bảo sự sống còn với chiến thắng trên sân khách trước Blyth Spartans vào tháng 4 năm 2008. Trong chiến dịch Cúp FA đầu tiên của mình, Solihull Moors đã lọt vào Vòng loại thứ tư trước khi bị Rushden & Diamonds đánh bại 5-0, sau đó của Football Conference. Một số thay đổi đã được thực hiện đối với đội hình của Solihull Moors trước mùa giải 2008-09, với 8 bản hợp đồng mùa hè được thực hiện. Tuy nhiên, sự tiến bộ của đội đầu tiên là không đáng kể, khi Moors đứng ở vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng. Ngược lại, đội trẻ đã có những bước tiến vượt bậc, khi kết thúc với tư cách là nhà vô địch Midland Floodlit Youth League, và lọt vào Vòng Hai của FA Youth Cup, trước khi để thua sát nút 2-0 trước đội bóng của học viện của câu lạc bộ chuyên nghiệp Tranmere Rovers. Giải cúp đã chứng kiến ​​Solihull đánh bại Wellington 18-0 trong vòng loại. Năm trong số những cầu thủ trẻ ấn tượng của mùa giải đó đã ký hợp đồng với đội hình cao cấp trong mùa giải kết thúc. Một mùa giải 2009-10 đầy biến động đã chứng kiến ​​Moors đi từ ứng cử viên xuống hạng vào giữa tháng 9 đến giữa bảng vào năm mới, trước khi trượt xuống vị trí thứ 17 vào cuối mùa giải. Chính sách chuyển nhượng có vẻ như quay vòng đã phản ánh sự khó khăn trong mùa giải của Solihull Moors trên sân cỏ. Vào ngày 7 tháng 2 năm 2011, quản lý của Moors, Bob Faulkner, qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 60, sau gần 25 năm quản lý Moor Green và Solihull Moors cộng lại. Micky Moore, trợ lý của ông và cũng là cựu huấn luyện viên Solihull Borough, là người thay thế ban đầu, tuy nhiên ông đã từ chức vào ngày 21 tháng 6 năm 2011 để đảm nhận vị trí trợ lý toàn thời gian tại Mansfield Town. Moors đứng thứ bảy ở Conference North mùa giải đó, sau đó là thành tích tốt nhất của họ kể từ khi thành lập câu lạc bộ. Dưới sự dẫn dắt của Faulkner và Moore, một đội hình tự hào về sức mạnh tấn công của Adam Cunnington và Matt Smithchỉ suýt chút nữa đã bỏ lỡ vòng playoffs, sau một mùa giải sụp đổ khi động lực bị phai nhạt. Tại thời điểm này, các chỗ ngồi bổ sung đã được lắp đặt tại Damson Park với dự đoán các thách thức thăng hạng sẽ đến. Câu lạc bộ cũng đã lọt vào trận chung kết Birmingham Senior Cup lần đầu tiên trong mùa giải này, khi để thua 2-0 trước West Bromwich Albion tại The Hawthorns. Marcus Bignot được công bố là huấn luyện viên mới của Solihull Moors vào ngày 27 tháng 6 năm 2011. Cựu hậu vệ của Crewe, Bristol Rovers, QPR và Millwall đến câu lạc bộ một tuần sau sự ra đi của Moore. Với một số cầu thủ không thể thiếu được phong độ mạnh mẽ ở mùa giải trước đã chuyển sang, ông thừa hưởng một đội hình trẻ trung thiếu kinh nghiệm, không giành được chiến thắng nào trong các trận giao hữu trước mùa giải. Bảy trận đầu tiên của mùa giải kết thúc trong thất bại. Sử dụng các mối quan hệ của mình trong trận đấu, Marcus đã thu hút một số cầu thủ mới và ngay lập tức kết quả bắt đầu được cải thiện, đến nỗi vào tháng 1, khả năng lọt vào vòng loại trực tiếp dường như có thể đạt được. Tuy nhiên, đội đã không thể duy trì động lực và vào cuối mùa giải câu lạc bộ kết thúc ngay trên khu vực xuống hạng, ở vị trí thứ 19. Sau một mùa giải đầu tiên khó khăn dưới thời Marcus Bignot, Moors tiếp tục tiến bộ trên sân để hướng tới thách thức thăng hạng từ Conference North. Câu lạc bộ đứng thứ 9 vào năm 2013, tiếp theo là vị trí thứ 8 vào năm 2014. Năm 2014 cũng chứng kiến ​​sự ra đời của cơ sở hạ tầng câu lạc bộ mạnh mẽ hơn tại Solihull Moors, với số lượng đội trong cấu trúc trẻ và cơ sở của câu lạc bộ tăng từ 3 lên 27. Những nỗ lực quảng bá câu lạc bộ trong cộng đồng địa phương và tăng lượng người tham dự cũng bắt đầu có kết quả vào thời điểm này, với số lượng người tham dự tăng 80% so với những năm trước. Moors đã có một mùa giải 2014-15 khó khăn hơn, chỉ đứng thứ 12 ở Conference North. Tuy nhiên, mùa giải 2014-15 cũng mang lại cơ hội mới cho câu lạc bộ, khi Birmingham City Ladies gia nhập The Moors tại Damson Park. The Moors đã đạt đến tầm cao mới dưới thời Bignot vào mùa giải 2015-16, giành chức vô địch National League North và lần đầu tiên giành quyền thăng hạng National League. Đội kết thúc mùa giải với 85 điểm, vô địch giải đấu một cách thoải mái với ba trận còn lại. Sự thăng hạng đã được đảm bảo vào một đêm mà Solihull thậm chí còn không được thi đấu, khi thất bại trước North Ferriby United tại Stalybridge Celtic về mặt toán học đã xác nhận chức vô địch của họ. Solihull cũng lần đầu tiên nâng cúp Birmingham Senior Cup - ở lần thứ hai yêu cầu - đánh bại Birmingham City 2-1 trên Sân vận động St. Andrew. Solihull Moors bắt đầu chiến dịch National League đầu tiên trên sân khách tại Sutton United vào ngày 6 tháng 8 năm 2016, thắng trận đầu tiên ở cấp độ quốc gia với tỷ số 3-1. Moors kể từ đó đã có trận đấu đầu tiên được truyền hình trực tiếp, thắng Southport 4-0 trên sân nhà trước các máy quay vào ngày 4 tháng 10 năm 2016. Solihull cũng lần đầu tiên giành được vị trí của họ ở vòng đầu tiên của Cúp FA, sau khi đánh bại Kettering Town trên sân nhà ở Vòng loại thứ Tư. Ở vòng đầu tiên, đội đã đánh bại Yeovil Town của League Two.Vào tháng 11, Bignot rời đi để nhận công việc của người quản lý tại Grimsby Town. Moors đã bổ nhiệm cựu quản lý của Hednesford Town và Redditch United, người đã dẫn dắt đội lên hạng 16 trong mùa giải đầu tiên của họ ở hạng năm. The Moors đã bị đội bóng Luton Town loại khỏi Cúp FA ở vòng Hai, thua 6-2 sau khi dẫn trước 2-0 trong hiệp một. The Moors đã có một khởi đầu không tốt cho mùa giải 2017-18, dẫn đến việc McDonald rời câu lạc bộ theo sự đồng ý của cả hai vào tháng 10 năm 2017. McDonald được thay thế bởi Richard Money, người đã rời câu lạc bộ vào cuối tháng đó và được thay thế bởi Mark Yates và trợ lý của ông Tim Flowers vào tháng 11. Yates và Flowers đã thực hiện "cuộc đại thoát" với 12 trận thắng trong 29 trận đấu, kết quả là câu lạc bộ tăng từ vị trí cuối cùng của giải đấu vào Giáng sinh, lên vị trí thứ 18 vào cuối mùa giải, giành được 6 điểm an toàn. Thành tích này dẫn đến việc Macclesfield Town mới được thăng hạng của League Two bổ nhiệm Yates làm người quản lý mới, và Flowers đảm nhận công việc hàng đầu tại Moors. Ở mùa giải National League 2018-19, Solihull đã đạt thành tích tốt nhất từ ​​trước đến nay, đứng thứ 2 với tổng số 86 điểm. Dưới thời Flowers, Moors đã trải qua cả mùa giải ở hoặc xung quanh vị trí đầu của giải đấu. Cuối cùng, họ phải giành được vị trí thứ hai và một suất tham dự vòng play-off khi bỏ xa danh hiệu này 3 điểm. The Moors đã bị loại khỏi vòng play-off bởi A.F.C. Fylde trong trận bán kết tại Damson Park, bàn thắng ở phút thứ hai của Danny Philliskirk đã chứng minh sự khác biệt. Câu lạc bộ cũng đã lọt vào Vòng Hai của Cúp FA, nơi họ cầm hòa Blackpool với tỷ số 0-0 trong trận lượt đi trên sân nhà được truyền hình trực tiếp trước một kỷ lục số khán giả nhưng thua trận đá lại ở Bloomfield Road 3-2, để thủng lưới một quả phạt đền trong hiệp phụ. Sân vận động. Hiện nay được gọi là sân vận động SportNation.bet vì lý do tài trợ, sân vân động nằm trên Damson Parkway ở khu vực Damsonwood của thị trấn, khoảng hai dặm về phía bắc của trung tâm thị trấn Solihull, bên cạnh nhà máy xe Land Rover. Sân có hai khán đài ngồi ở hai bên sân và một khán đài có mái che gồm chỗ ngồi hỗn hợp và bậc thang ở cuối phía đông nam của mặt đất, nơi có tất cả sáu lối vào. Khán đài chính nằm ở phía Tây Nam của mặt đất và được kết nối với hội quán. Nhà câu lạc bộ có hai khu vực quầy bar riêng biệt và cũng là nơi có cửa hàng bánh ngọt và khoai tây chiên vào các ngày thi đấu. Khán đài có chỗ ngồi ở phía dưới và ban công phía trên dành cho các nhà tài trợ và quan chức câu lạc bộ. Vào năm 2019, các hộp đã được thêm vào. Liền kề khán đài chính là khu vực đứng cứng với khối nhà vệ sinh nhô cao. Các bậc thang dẫn đến lối vào nhà vệ sinh cung cấp một diện tích nhỏ duy nhất của bậc thang ở cuối mặt đất, và do đó được một nhóm người hâm mộ Solihull Moors gọi mình là "Phi hành đoàn số 2" khi đội thường tấn công vào phía kia của sân. Các cửa quay mở vào khu vực bên cạnh khán đài chính (nơi cũng tổ chức cửa hàng câu lạc bộ và nhượng quyền bán đồ ăn nóng), khu vực đứng cứng ở phía đối diện của sân với khán đài chính và vào khán đài lớn khác. Khu vực này, được gọi là 'The Shed' - hoặc đôi khi còn là 'The Tuck Shop End' dành cho những người ủng hộ, hiện được đặt tên chính thức là 'Wadsworth sovisors' vì lý do tài trợ. Đúng như tên gọi, đây là nơi có cửa hàng bán đồ giải khát trong suốt trận đấu, nhưng không bán đồ ăn nóng. Phần lớn phần còn lại của mặt đất là đứng cứng chưa phát triển. Gần cửa quay nhất ở phía đông bắc của mặt đất, có một khối nhà vệ sinh và đôi khi là một quầy thức ăn nóng thứ hai, tùy thuộc vào yêu cầu phân biệt và nhu cầu. Đối diện khán đài chính có một bậc thang duy nhất nằm vắt vẻo giữa nửa đường của sân. Xa hơn nữa dọc theo phía này, theo hướng đối diện với Wadsworths Solicitors Stand, là một khu vực nhỏ hơn với chỗ ngồi có mái che đã được dựng lên vào năm 2016. Đầu xa nhất của mặt đất từ ​​cửa quay đều là chỗ đứng cứng và được gọi là "The DrainTech End "vì lý do tài trợ. Sân vận động SportNation.bet cũng chào đón Birmingham City Ladies lần đầu tiên trong mùa giải FA Women's Super League 2014-15, đội cũng đã thi đấu tại UEFA Women's Champions League. Birmingham City Ladies có xu hướng chơi các trận đấu WSL vào Chủ nhật, do đó tránh đụng độ với các đối thủ của Solihull Moors.. Vào tháng 4 năm 2017, sân vận động đã nhận được trạng thái Hạng A từ Ban kỹ thuật phân loại mặt đất của FA. Sân vận động có 770 chỗ ngồi trên ba khu vực chỗ ngồi khác nhau của mặt sân. Công suất tổng thể là 3.050 chỗ ngồi. Có những kế hoạch đang được thực hiện để nâng công suất tổng thể lên 4.313 bằng cách phát triển tất cả các mặt của sân, phù hợp với yêu cầu của Liên đoàn Quốc gia. Vào ngày 7 tháng 10 năm 2017, Richard Money phụ trách trận đấu đầu tiên của anh ấy cho Moors với số điểm khi đó là 2.658. Trong mùa giải 2019–20, Solihull Moors đã ký một thỏa thuận với Argyll Entertainment để đổi tên sân vận động thành Sân vận động SportNation.bet. Cầu thủ. Đội hình hiện tại. Khi cầu thủ không tuyên bố trung thành với quốc tế, quốc gia được xác định theo nơi sinh. Đội hình cập nhật kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2019. Mùa giải. Farsley Celtic rút lui khỏi giải đấu giữa mùa và thành tích của họ sau đó bị xóa, khiến chỉ còn 21 đội trong giải đấu.<br> Solihull Moors bị trừ 3 điểm vì đưa vào sân một cầu thủ không đủ điều kiện.
Klaus Mitffoch
Klaus Mitffoch là một ban nhạc rock của Ba Lan được thành lập vào năm 1979 tại Wrocław với các thành viên ban đầu gồm Lech Janerka, Krzysztof Pociecha và Kazimierz Sycz. Ngay sau đó, Wiesław Mrozik và Marek Puchała (người thay thế Sycz chơi trống) đã tham gia ban nhạc, và ban nhạc đã thu được một lượng lớn người hâm mộ từ giới underground. Họ thu âm đĩa đơn đầu tiên "Ogniowe Strzelby/Śmielej" vào năm 1983 và giới thiệu album đầu tay "Klaus Mitffoch" vào năm 1984. Album này đã nhận được nhiều giải thưởng và được xem là một trong những album quan trọng nhất trong lịch sử nhạc rock của Ba Lan. Ban nhạc tan rã vào năm 1984. Janerka tiếp tục sự nghiệp solo lâu dài; Pociecha hợp tác với Janerka trong hai album nữa. Từ năm 1986 đến năm 1989, Mrozik và Puchała, cùng với Paweł Chyliński (guitar/hát chính), Jacek Fedorowicz (guitar bass) và Zbigniew Kapturski (guitar/ hát chính), tiếp tục biểu diễn dưới tên nhóm là 'Klaus Mit Foch'; sự tái hợp và kết hợp mới này của nhóm đã cho ra mắt album "Mordoplan" vào năm 1988.
Blackstones F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Blackstones là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Stamford, Lincolnshire, Anh. Đội hiện là thành viên của và thi đấu trên sân Lincoln Road. Trang phục thi đấu của đội bao gồm màu xanh lá cây Lincoln (Lister Blackstone có động cơ Brunswick Green) và áo trắng cùng với quần đen, tất xanh lá cây. Lịch sử. Được thành lập với tư cách là đội công nhân của Blackstone & Co, câu lạc bộ đã giành được chức vô địch Peterborough & District League mùa giải 1918-19. Tuy nhiên, sau đó, đội chuyển sang chơi bóng ở địa phương nhiều hơn, chơi ở các giải Stamford & District và Bourne & District, giành chức vô địch giải Stamford & District cuối cùng trước Thế chiến thứ hai. Sau chiến tranh, câu lạc bộ gia nhập lại Peterborough & District League. Đội xếp cuối Division One mùa giải 1950-51 và bị xuống hạng ở Division Two. Mùa giải tiếp theo chứng kiến ​​đội xếp cuối Division Two, sau đó rời giải. Đội trở lại giải đấu vào năm 1959, và vô địch Division Two mùa giải 1961-62 và vô địch Division One mùa giải 1975-76. Trong thời kỳ này, đội được đổi tên thành Mirrlees Blackstone sau khi công ty hợp nhất với Mirrlees National Limited vào năm 1969. Năm 1984 câu lạc bộ tham gia Division One của United Counties League. Sau khi kết thúc với vị trí á quân mùa giải 1987-88, đội được thăng hạng lên Premier Division. Mùa giải 1992−93 chứng kiến ​​đội giành được Lincolnshire Senior 'A' Cup, đánh bại Bourne Town trong trận chung kết. Năm 1998, đội lấy tên hiện tại sau khi Mirrlees Blackstone đóng cửa các công trình Stamford của mình. Mùa giải 2002-03, đội đã giành chức vô địch Premier Division Knock-Out Cup với chiến thắng 4-0 trước Buckingham Town trong trận chung kết; mùa giải tiếp theo, lần thứ hai đội đã giành được Lincolnshire Senior 'A' Cup. Sau khi kết thúc ở vị trí tiếp theo của Premier Division vào mùa giải 2012−13, câu lạc bộ đã bị xuống hạng đến Division One. Sân vận động. Địa điểm sau này trở thành Lincoln Road đã được Rutland Engineering Works mua lại vào năm 1920; ban đầu nó bao gồm hai sân bóng đá và một sân cricket. Năm 1965, một nhà câu lạc bộ mới được xây dựng để thay thế cho sân cricket đã bị phá bỏ. Vào cuối những năm 1970 hoặc đầu những năm 1980, một khán đài mới đã được xây dựng tại vị trí của nó, lúc đó mặt sân không còn được sử dụng cho cricket, sân bóng đá thứ hai bị mất và một phần của khu đất được bán để làm nhà ở. Hệ thống dàn đèn được lắp đặt vào năm 1989. Hiện sân có sức chứa 1.000, trong đó 100 chỗ ngồi và có mái che.
Workhorse Group
Workhorse Group Incorporated là một công ty sản xuất của Mỹ có trụ sở tại Cincinnati, Ohio, hiện đang tập trung vào sản xuất các phương tiện giao hàng và tiện ích chạy bằng năng lượng điện. Công ty được thành lập vào năm 1998 bởi các nhà đầu tư, những người tiếp quản việc sản xuất khung gầm của xe van và xe nhà di động dòng P30 / P32 của General Motors. Đến năm 2005, công ty được tiếp quản bởi Navistar International, đơn vị mà trước đó đã bán động cơ diesel cho Workhorse Group. Navistar sau đó đã đóng cửa nhà máy vào năm 2012 để cắt giảm chi phí sau khi thua lỗ nặng. Vào tháng 3 năm 2015, AMP Electric Vehicles đã tiếp quản Workhorse Custom Chassis, đổi tên công ty thành Workhorse Group Incorporated, và bắt đầu cung cấp một loạt các xe chở hàng chạy bằng điện.
Poeciliopsis hnilickai
Poeciliopsis hnilickai, tên thông thường là Upper Grijalva livebearer, là một loài cá nước ngọt thuộc chi "Poeciliopsis" trong họ Cá khổng tước. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981. Từ nguyên. Loài cá này đã được đặt theo tên của Erich Hnilicka, một nhà hồ học nghiệp dư người Mexico và là một người chăm sóc các bể thủy sinh, cá cảnh. Ông cũng là người đã phát hiện ra loài "P. hnilickai". Phân bố và môi trường sống. "P. hnilickai" có phạm vi phân bố ở Trung Mỹ. Loài cá này được tìm thấy ở một vài nhánh sông thuộc các bang Chiapas, Oaxaca, Tabasco (Mexico), và gần Huehuetenango (Guatemala). Chúng sinh sống ở các ao hồ, lạch sông, nơi đáy phù sa, bùn, cát, sỏi đá. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "P. hnilickai" là 5 cm, thuộc về một cá thể mái; cá đực của loài "P. hnilickai" có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 3,5 cm. Sau khoảng 28 - 32 ngày mang thai, cá mái có thể cho ra đời khoảng từ 10 đến 35 con cá bột; cá bột thuần thục sinh dục sau 10 tuần phát triển.
Phim đôi bạn
Buddy film là một thể loại phim trong đó vai chính là hai người bạn thân cùng giới (trước đây trong điện ảnh thường là nam giới) được kết hợp. Hai người này thường tương phản trong tính cách, tạo ra một năng động khác nhau trên màn ảnh hơn so với một kết hợp của hai người khác giới. Sự tương phản tính cách nhân vật đôi khi được nhấn mạnh bởi một sự khác biệt giữa hai dân tộc. Thể loại "buddy film" này phổ biến trong điện ảnh Mỹ, không giống như một số thể loại phim khác, nó đã trải qua thế kỷ 20 với các cặp khác nhau và chủ đề khác nhau. Lịch sử. "Buddy film" phổ biến tại rạp chiếu phim của điện ảnh Mỹ hơn các nước phương Tây khác, trong khi tất cả có xu hướng tập trung vào các mối quan hệ lãng mạn nam-nữ hoặc một nam nhân "anh hùng". Nhà phê bình phim David Thomson nhận xét: ""buddy film" hiếm thấy ở phim Anh và phim Pháp, bạn sẽ không thấy ba người Anh cư xử theo cách người Mỹ, họ vui vẻ khi hợp tác với người đàn ông khác". Trước đây, các nhân vật Huck Finn và Tom Sawyer của tác giả Mark Twain thế kỷ 19 của Mỹ cũng đã xuất hiện sự liên kết này, như "một cậu bé tốt kết hợp với cậu bé xấu", cũng như Huck Finn và Nô lệ Jim trong năm 1884, tiểu thuyết "Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" của Twain. Phim hành động thế kỷ 20 tại Mỹ thường đặc trưng các cặp nhân vật nam giới cộng tác cùng nhau như đồng nghiệp. Mối quan hệ Nam-nam. Một bộ "buddy film" là sự ghép nối của hai người cùng giới, trong lịch sử nhân loại. Một tình bạn giữa hai người là mối quan hệ quan trọng trong một bộ phim. Hai người thường đến từ nguồn gốc khác nhau hoặc có tính cách khác nhau, và họ có xu hướng hiểu lầm nhau. Thông qua các sự kiện của bộ "buddy film", họ có được một tình bạn mạnh mẽ hơn và tôn trọng lẫn nhau. "Buddy film" thường xuyên đối phó với cuộc khủng hoảng của nam giới, đặc biệt liên quan đến giai cấp, chủng tộc và giới tính trong xã hội, hoặc mối quan hệ của "đôi bạn" được xen vào bởi một nhân vật nữ (xinh đẹp) như một động lực để phát triển nên tính cách của nhân vật "đôi bạn" trong phim mà khi đến đoạn kết, sau sự chia rẽ, họ bắt chặt tay trong sự thông cảm sâu sắc tình bạn, và mối quan hệ nam nữ của các nhân vật bị mờ nhạt trước tình bạn nam-nam này.
Sakai Hiroki
là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nhật Bản hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Urawa Red Diamonds tại J1 League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản. Sakai thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 2012. Thống kê sự nghiệp. !Tổng cộng||74||1
Nữ vương Ha
Nữ vương Ha là người phụ nữ lâu đời nhất được biết đến. Cô sống vào thời của vua Naqada III (3200—3000 TCN) hoặc có thể là thời kì tiền sử (3150—3100 TCN) ước tính khoảng từ năm 3150 đến năm 3120 TCN. Cô đã kết hôn Vua Ka. Ngôi mộ và đồ tạo tác. Một vị thần linh trung thành được tìm thấy ở trên một ngôi mộ nằm ở Abydos, Ai Cập.
Oxford City F.C.
Câu lạc bộ Oxford City là một câu lạc bộ bóng đá Anh đến từ Marston, Oxford. Đội hiện đang thi đấu tại National League South, cấp độ thứ sáu của bóng đá Anh, và chơi các trận đấu trên sân nhà tại Marsh Lane. Lịch sử. Câu lạc bộ chơi trận đấu đầu tiên được ghi lại vào tháng 12 năm 1883 và nhanh chóng trở thành câu lạc bộ hàng đầu ở Oxfordshire, vô địch FA Amateur Cup năm 1906, trước khi gia nhập Isthmian League vào năm sau. Vào nửa sau của thế kỷ 20, câu lạc bộ đã đi vào suy thoái và nhanh chóng tụt lại phía sau Headington United sau khi câu lạc bộ đó chuyển sang chuyên nghiệp vào năm 1949. Một nỗ lực đã được thực hiện để đưa câu lạc bộ trở lại thành công vào năm 1979 khi nó trở thành một công ty hữu hạn và sau đó khi huyền thoại Bobby Moore được bổ nhiệm làm huấn luyện viên cùng với người đồng đội cũ ở West Ham United là Harry Redknapp làm trợ lí. Câu lạc bộ đạt đến điểm suy thoái nhất vào năm 1988 khi đội bị đuổi khỏi White House Ground bởi chủ đất Brasenose College, người đã bán nó để lấy nhà ở. Bị buộc phải từ chức Isthmian League, câu lạc bộ đã không cải tổ và trở lại bóng đá cao cấp cho đến năm 1990 khi có trụ sở tại Cutteslowe Park, đội tham gia South Midlands League Division One, giành quyền thăng hạng trong mùa giải đầu tiên. Đội trở lại Isthmian League vào năm 1993 cùng lúc chuyển đến sân hiện tại. Câu lạc bộ tiếp tục vượt qua các hạng đấu của giải trong suốt những năm 1990 và lọt vào trận chung kết FA Vase vào năm 1995. Điểm nổi bật của thập kỷ tiếp theo bao gồm hai năm ở Isthmian League Premier Division và màn thi đấu hoành tráng ở Cúp FA mùa giải Cúp FA 1999-2000 mà đỉnh cao là cuộc chiến ba trận đấu với Wycombe Wanderers ở Vòng Một, cuối cùng bị dẫn trước 1-0 trên sân Manor Ground của Oxford United. Trận đá lại đầu tiên đã bị bỏ dở do có chuông báo cháy ngay khi loạt sút luân lưu sắp bắt đầu; Đây vẫn là trận đấu duy nhất của FA Cup phải đá lại lần thứ hai vì FA đã ra phán quyết rằng tất cả các trận đấu phải được giải quyết sau tối đa hai trận. Sự thay đổi quy tắc này cũng có nghĩa là kỷ lục Cúp FA khác của City - sáu trận cần thiết trước khi thua Alvechurch ở mùa giải 1971-72 - có lẽ sẽ không bao giờ bị đánh bại. Năm 2005, câu lạc bộ bị xuống hạng trở lại South Midlands League, nhưng đã được thăng hạng vào lần đầu tiên dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Andy Lyne, giành cả chức vô địch và Premier Cup. Vào tháng 11 năm 2006 Lyne từ chức huấn luyện viên để trở thành Giám đốc bóng đá của câu lạc bộ. Ông được Justin Merritt kế nhiệm làm Giám đốc Cầu thủ và cựu cầu thủ Oxford United Mike Ford làm trợ lý. Merritt sau đó từ chức vào tháng 8 năm 2009 và Ford tiếp quản vị trí quản lý. Vào ngày 3 tháng 5 năm 2008, Oxford City được thăng hạng từ Southern League Division One South and West với chiến thắng 1-0 trước Uxbridge. Trong mùa giải đầu tiên ở Premier Division, đội đã kết thúc ở vị trí thứ 6, suýt chút nữa đã bỏ lỡ vòng play-off. Mùa giải 2011-12 Oxford City về thứ 2 sau khi suýt chút nữa đã bỏ lỡ danh hiệu này. Họ đã giành chiến thắng trong trận chung kết playoff trước AFC Totton để giành quyền thăng hạng Conference North lần đầu tiên trong lịch sử. Câu lạc bộ đã có một mùa giải đầu tiên thành công ở Conference North, kết thúc ở vị trí thứ 10, hơn khu vực xuống hạng 11 điểm. Mùa giải tiếp theo đã chứng tỏ một cuộc đấu tranh nhiều hơn, khi ban đầu kết thúc trong khu vực xuống hạng sau khi bị trừ ba điểm vì đã loại một cầu thủ không đủ điều kiện, và chỉ được miễn xuống hạng sau khi Vauxhall Motors rút khỏi Football Conference. Mike Ford rời câu lạc bộ ngay sau khi mùa giải kết thúc. Vào ngày 18 tháng 5 năm 2014, Oxford City bổ nhiệm Justin Merritt làm huấn luyện viên; ông được tham gia cùng với Trợ lý Danny Nicholls với vai trò huấn luyện cho các cựu cầu thủ Mark Jones và Alan Foster và Enrique Guillen tiếp tục vai trò huấn luyện của mình tại câu lạc bộ. Trong mùa giải 2015-16, đội chuyển từ Conference North sang Conference South - hạng đấu được đổi tên thành National League South. Merritt từ chức vào tháng 12 năm 2016, trở thành tổng giám đốc của câu lạc bộ, và Mark Jones tiếp quản vị trí huấn luyện viên đội một, ban đầu trên cơ sở huấn luyện viên tạm quyền. Mùa giải 2017-18 The Hoopsđã có một trận đấu lịch sử tại FA Cup. Dưới sự dẫn dắt của Mark Jones, lần đầu tiên trong lịch sử, Man City đánh bại đối thủ của giải bóng đá bằng chiến thắng 1-0 trước Colchester. Sau đó, trong lần đầu tiên góp mặt ở Vòng Hai sau 47 năm, câu lạc bộ đã bị đánh bại trong gang tấc với bàn thắng ở phút bù giờ trước Notts County, trong một trận đấu được phát sóng trực tiếp trên BT Sport. Phong độ tốt trong các giải đấu cúp được theo sau với chiến thắng trong trận chung kết Oxfordshire Senior Cup lần đầu tiên sau 15 năm vào cuối mùa giải. Thành công ở cúp quốc gia của City tiếp tục diễn ra trong mùa giải 2018-19, khi đội lọt vào Vòng Một Cúp FA mùa thứ hai liên tiếp. Sau trận hòa 3-3 trên sân khách tại Tranmere Rovers của League Two, câu lạc bộ đã bị loại trong trận đấu lại trước ống kính của kênh BT Sport TV tại Marsh Lane. The Hoops cũng giữ được Oxfordshire Senior Cup, với tỷ số 3-1 khi đánh bại Banbury United 4-3 trong một trận chung kết gay cấn. Vào tháng 10 năm 2019, Mark Jones đã rời bỏ vai trò huấn luyện viên của mình bởi 'thỏa thuận đôi bên', chỉ 48 giờ sau khi giúp đội vào vòng Một Cúp FA năm thứ ba liên tiếp. Các cựu danh thủ Justin Merritt và Andy Ballard đã tiếp quản vị trí quản lý tạm thời. City là một Câu lạc bộ Cộng đồng Tiêu chuẩn Điều lệ FA và có hơn 37 đội, với các đội nam, nữ, nam trẻ và nữ trẻ. Sân vận động. Oxford City chơi các trận đấu trên sân nhà tại Marsh Lane, Marston, Oxford, Oxfordshire, OX3 0NQ.
Tiếng Goth
Tiếng Goth là một ngôn ngữ German từng được nói bởi người Goth. Những điều ta biết về nó chủ yếu là thông qua "Codex Argenteus", một bản in thế kỷ 6 của một bản dịch Kinh Thánh thế kỷ 4, và là ngôn ngữ German Đông duy nhất với số văn liệu đáng kể. Những ngôn ngữ German Đông khác, gồm tiếng Burgundy và tiếng Vandal, chỉ được được biết đề từ những tên riêng còn sót lại trong văn bản lịch sử, và từ từ mượn trong những ngôn ngữ khác như tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha, và tiếng Pháp. Là một ngôn ngữ German, tiếng Goth là một phần của gia đình ngôn ngữ Ấn-Âu. Đây là ngôn ngữ German sớm nhất được chứng thực bằng nhiều văn bản lớn, nhưng không có hậu duệ trực tiếp. Tài liệu cổ nhất viết bằng tiếng Goth có niên đại từ thế kỷ thứ tư. Ngôn ngữ đã bị suy thoái vào giữa thế kỷ thứ sáu, một phần do thất bại quân sự của người Goth trước người Frank, người Goth ở Ý bị loại bỏ, và sự cô lập về mặt địa lý (ở Tây Ban Nha, tiếng Goth có lẽ đã đánh mất chức năng chính và chỉ còn được sử dụng như một ngôn ngữ nhà thờ khi người Visigoth cải sang đạo Công giáo năm 589). Ngôn ngữ này vẫn tồn tại như một ngôn ngữ địa phương ở bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha hiện đại) cho đến tận cuối thế kỷ thứ tám, ở vùng hạ lưu sông Danube và các vùng núi non ở Crimea, dường như là vào cuối thế kỷ thứ chín.
Brendan Gan
Brendan Gan Seng Ling (; Hán-Việt: Nhan Hưng Long; sinh ngày 3 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Úc gốc Malaysia hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Selangor và đội tuyển quốc gia Malaysia. Sự nghiệp câu lạc bộ. Gan bắt đầu chơi bóng cho câu lạc bộ địa phương của anh ấy, Marton Hammers trước khi anh ấy ký hợp đồng với Sutherland Sharks năm 2000 khi anh ấy 12 tuổi và trải qua các lớp trẻ của họ để có trận ra mắt cấp cao cho câu lạc bộ vào năm 2008. Đó là mùa giải ra mắt này. điều đó đã đưa Gan trở nên nổi bật trên các phương tiện truyền thông địa phương, mang lại danh tiếng ngày càng lớn cho nó. [1] Anh ấy đã không gây thất vọng với những màn trình diễn chói sáng hết tuần này qua tuần khác, cuối cùng đưa anh ấy lên ngôi vị cầu thủ xuất sắc nhất của giải Ngoại hạng New South Wales, đồng thời mang về giải thưởng Huy chương vàng cho cuộc thi. [2] Sydney FC Sydney FC Anh đã được Sydney FC ký hợp đồng cho đội hình khai mạc Giải trẻ quốc gia của họ trước sự cạnh tranh từ các câu lạc bộ đối thủ A-League. [3] [4] Vào ngày 28 tháng 11 năm 2008, Gan đã có trận ra mắt cho Sydney FC trong trận đấu với Queensland Roar với một vai khách mời dài 5 phút, nơi anh đã lọt vào mắt xanh. [5] [6] Vào ngày 7 tháng 12, anh ấy đã ghi bàn thắng quyết định ở phút 78 cho Sydney FC trước Newcastle Jets để mang lại cho họ chiến thắng đầu tiên sau 7 trận. [7] Gan đã được ra mắt đầy đủ vào ngày 13 tháng 12 trong trận đấu với Central Coast Mariners. [8] Anh ghi bàn thắng thứ hai vào lưới Melbourne Victory bằng một cú sút xa từ ngoài vòng cấm. [9] Gan đã ghi bàn thắng thứ ba vào lưới Wellington Phoenix bằng một cú đánh đầu dũng mãnh từ một quả phạt góc. Bàn thắng này giúp Sydney FC giành chiến thắng 2–0 trước Wellington và đưa họ lên ngôi đầu bảng, bỏ xa Gold Coast United. Vào ngày 2 tháng 12 năm 2010, chỉ trong trận đấu thứ hai của anh ấy trong mùa giải, anh ấy đã ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 3–1, một lần nữa trước Wellington Phoenix. Anh ấy đã được thả khỏi Sydney, cùng với một số cầu thủ khác khi kết thúc chiến dịch Champions League châu Á năm 2011 của Sydney. [10 Bonnyrigg White Eagles Đại bàng trắng BonnyriggGan ký hợp đồng với Bonnyrigg White Eagles ở NSW Premier League, [11] và có trận ra mắt trong trận đấu ở Vòng 15 với Sydney United. [12] Sabah FA Vào ngày 17 tháng 11 năm 2011, Brendan gia nhập câu lạc bộ Malaysia, Sabah với tư cách là một trong hai cầu thủ nước ngoài được phép tham dự giải Malaysia Super League 2012. Brendan, cùng với những người đồng hương của mình, Michael Baird đã ký hợp đồng một năm với Sabah. Rockdale City Suns Brendan đã ký hợp đồng với Rockdale City Suns FC NSW Premier League vào mùa giải tiếp theo vì Sabah không đề nghị gia hạn hợp đồng. Với cơ hội này, anh ấy đã xác nhận ý định trở lại A-League. [14] Kelantan FA Kelantan FA Vào tháng 11 năm 2013, Brendan trở lại Malaysia và ký hợp đồng ba năm với Kelantan. Anh ấy được cho là đã đăng ký làm cầu thủ địa phương cho Kelantan nhưng không được FAM chấp thuận vì theo FAM bất kỳ cầu thủ nào được đăng ký là cầu thủ địa phương đều phải có chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu Malaysia. Vào ngày 6 tháng 4, anh chính thức nhận được chứng minh thư và được Kelantan đăng ký làm cầu thủ địa phương vào kỳ chuyển nhượng tháng 4. [15] [16] [17] [18] Anh có trận ra mắt trong trận đấu giữa Kelantan với Terengganu, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1–1. Trong trận đấu đầu tiên của giải Malaysia Super League 2015, Gan bị rách ACL nghiêm trọng ở đầu gối phải, điều này sẽ khiến anh ấy phải nghỉ thi đấu trong phần lớn mùa giải 2015. [19] Vào tháng 9 năm 2016 Gan gặp phải một chấn thương ACL khác, lần này là ở đầu gối trái, dự kiến ​​sẽ khiến anh phải nghỉ thi đấu trong 10 tháng, khiến anh không thể tham dự chức vô địch AFF Cup 2016. [20] Sự nghiệp quốc tế. Gan có lần đầu tiên ra sân thi đấu cho đội tuyển Malaysia vào ngày 24 tháng 3 năm 2016 trong trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2018 gặp Saudi Arabia. Danh hiệu. Kelantan Perak
Top Model (Ba Lan mùa 9)
Top Model, mùa 9 là mùa thứ chín của loạt chương trình truyền hình thực tế dựa trên chương trình "America’s Next Top Model" của Tyra Banks, các thí sinh Ba Lan cạnh tranh trong nhiều cuộc thi khác nhau để xác định ai sẽ giành được danh hiệu "Top Model" Ba Lan tiếp theo. Joanna Krupa cũng là giám khảo chính, và trở lại làm người dẫn chương trình mùa thứ chín. Các giám khảo khác bao gồm nhà thiết kế thời trang Dawid Woliński, đạo diễn chương trình thời trang Kasia Sokołowska và nhiếp ảnh gia Marcin Tyszka. Đây là mùa thứ sáu của chương trình có sự góp mặt của các thí sinh nam. Trong mùa này, các thí sinh phải đăng kí dự thi thông qua Internet vì đại dịch Covid-19 đã khiến cho các buổi sơ tuyển tại các thành phố bị hủy. Trong số các giải thưởng của mùa này gồm một hợp đồng với Models Plus Management, lên ảnh bìa bìa tạp chí "Glamour" của Ba Lan, và giải thưởng tiền mặt trị giá 100.000 złotys. Điểm đến quốc tế cho mùa này là Athens. Người chiến thắng trong cuộc thi là Mikołaj Śmieszek, 19 tuổi, đến từ Rabka Zdrój.
Dulwich Hamlet F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Dulwich Hamlet là một câu lạc bộ bóng đá ở nam Luân Đôn, Anh. Đội hiện là thành viên của và thi đấu tại Champion Hill. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1893, bởi Lorraine 'Pa' Wilson. Đội là thành viên sáng lập của Dulwich League năm 1899, và là nhà vô địch đầu tiên. Câu lạc bộ tiếp tục giữ được danh hiệu vào mùa giải tiếp theo. Năm 1907, đội bóng tham gia cả Isthmian League và Spartan League, rời giải thứ hai vào cuối mùa giải 1907-08. Mùa giải 1919-20 câu lạc bộ đã giành được chức vô địch Isthmian League đầu tiên, vô địch giải đấu về số bàn thắng trung bình trước Nunhead. Đội cũng vô địch FA Amateur Cup, khi đánh bại Tufnell Park 1-0 trong trận chung kết tại the Den. Câu lạc bộ đã vô địch giải đấu một lần nữa vào mùa giải 1925-26,và FA Amateur Cup lần thứ hai vào mùa giải 1931-32 giành chiến thắng 7-1 trước Marine trong trận chung kết. Mùa giải tiếp theo, câu lạc bộ đã giành chức vô địch giải đấu thứ ba. Mùa giải 1933-34, họ giành Cúp FA nghiệp dư thứ ba, đánh bại Leyton 2-1 trong trận chung kết. Hai câu lạc bộ gặp lại nhau trong trận chung kết 1936-37, với chiến thắng 2-0 của Dulwich. Mùa giải 1948-49 câu lạc bộ đã giành chức vô địch Isthmian League lần thứ tư. Mùa giải 1976-77 chứng kiến ​​câu lạc bộ xếp cuối Division One, dẫn đến việc phải xuống hạng ở Division Two, được đổi tên thành Division One vào mùa giải tiếp theo, và Division One trở thành Premier Division. Câu lạc bộ tiếp tục giành được chức vô địch Division One vào 1977-78 và được thăng hạng trở lại Premier Division. Đội đứng cuối Premier Division trong mùa giải 1989-90, và bị xuống hạng đến Division One. Câu lạc bộ đã được thăng hạng trở lại Premier Division vào cuối mùa giải 1991-92 sau khi đứng thứ ba ở Division One. Mùa giải 1998-99 lần đầu tiên đội lọt vào Vòng Một Cúp FA kể từ năm 1948, thua Southport 1-0. Sau khi xếp cuối Premier Division mùa giải 2000-01, câu lạc bộ đã xuống hạng trở lại Division One. Sau khi đứng thứ bảy trong mùa giải 2003-04, câu lạc bộ đã đấu play-off với Wealdstone để giành một suất trong Premier Division sau khi tái cơ cấu giải đấu nhưng để thua 5-4 trên chấm phạt đền sau trận hòa 2-2. Mùa giải 2010-11 Dulwich đứng thứ 5 và lọt vào vòng play-off thăng hạng, đánh bại Bognor Regis Town 3-1 ở bán kết trước khi thua Leatherhead trong trận chung kết. Mùa giải tiếp theo, câu lạc bộ đứng thứ ba, một lần nữa đủ điều kiện tham dự trận play-off thăng hạng. Sau khi đánh bại Folkestone Invicta 2-1 ở bán kết, đội đã thua 1-0 trong trận chung kết trước Bognor Regis. Đội trở lại Premier Division sau khi giành chức vô địch Division One South vào vòng đấu cuối cùng của mùa giải 2012-13 với trận hòa 1-1 trước Burgess Hill Town. Mùa giải 2014-15 Dulwich đứng thứ 4 tại Premier Division, đủ điều kiện tham dự vòng play-off. Tuy nhiên, đội để thua 2-1 trước Margate ở bán kết. Mùa giải tiếp theo câu lạc bộ đứng thứ 5 và lọt vào trận chung kết play-off sau khi thắng Bognor Regis Town 1-0 ở trận bán kết, và thất bại 3-1 trước East Thurrock United. Mùa giải 2016-17 Dulwich đứng thứ ba ở Premier Division, đủ điều kiện tham dự vòng play-off mùa thứ ba liên tiếp. Sau khi đánh bại Enfield Town 4-2 ở bán kết, đội đã để thua 2-1 trước Bognor Regis Town trong trận chung kết. Mùa giải tiếp theo, câu lạc bộ kết thúc với vị trí á quân tại Premier Division. Trong trận play-off tiếp theo, đội đánh bại Leiston 1-0 trong trận bán kết, trước khi đánh bại Hendon 4-3 trên chấm luân lưu sau khi hòa 1-1 trong trận chung kết để giành quyền thăng hạng lên National League South.. Mùa giải 2019-20 chứng kiến Dulwich lọt vào Vòng Một của Cúp FA, và nhận thất bại 4-1 trên sân nhà trước Carlisle United. Sân vận động. Câu lạc bộ chơi tại Woodwarde Road cho đến năm 1895, khi đội chuyển đến College Farm. Năm sau, họ chuyển đến Sunray Avenue, ở lại cho đến năm 1902. Từ năm 1902 đến năm 1912, đội chơi tại Freeman's Ground trên Champion Hill, trước khi chuyển đến một khu đất liền kề, nơi họ chơi cho đến khi khai trương sân vận động Champion Hill vào năm 1931. Sân vận động được sử dụng cho các trận đấu quốc tế nghiệp dư, bao gồm Thế vận hội Mùa hè 1948. Vào năm 1991, sân vận động đã bị phá bỏ, vì nó quá cạn kiệt và nguy hiểm để đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn hiện đại, do các quy định mới được đưa ra sau thảm họa Hillsborough. Trong mùa giải 1991-92 câu lạc bộ chơi trên sân Sandy Lane của Tooting & Mitcham United, trong khi một sân vận động mới, nhỏ hơn được xây dựng trên cùng một địa điểm, mở đầu cho mùa giải 1992-93. Sân vận động mới được tài trợ bởi việc bán cho Sainsbury's mảnh đất từng là sân tập của câu lạc bộ, nằm ngay phía sau sân thượng lớn có mái che ở phía bắc của Champion Hill 'cũ', của King's College London. Mặt sân mới vẫn thuộc quyền sở hữu của King, với việc câu lạc bộ đã từ bỏ hợp đồng thuê mặt bằng cũ để đổi lấy mặt bằng mới được xây dựng. Vào tháng 9 năm 2013, sân bóng này đã trở thành sân bóng đầu tiên ở Greater London được liệt kê là Tài sản có giá trị cộng đồng, nhưng điều này đã bị Hội đồng Southwark rút lại không lâu sau đó do tính kỹ thuật hợp pháp. Vào tháng 2 năm 2014, Champion Hill đã được mua lại với giá 5,7 triệu bảng Anh bởi Meadow Residential. Vào tháng 3 năm 2018, công ty đã buộc câu lạc bộ rời khỏi sân, dẫn đến việc chia sẻ sân tạm thời với các đối thủ Tooting & Mitcham, tại sân vận động Imperial Fields, kéo dài cho đến khi Dulwich trở lại Champion Hill vào tháng 12 năm 2018. Cầu thủ. Đội hình hiện tại. "Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2020" Cựu cầu thủ nổi bật. Trong những năm 1920, câu lạc bộ có hai cầu thủ khoác áo đội tuyển Anh. Bert Coleman được thi đấu quốc tế khi chơi cho Dulwich năm 1921, trong khi Edgar Kail đã giành được ba lần khoác áo thi đấu trước Pháp, Bỉ và Tây Ban Nha năm 1929. Kail là cầu thủ nghiệp dư cuối cùng chơi cho đội tuyển Anh trong khi chỉ với một câu lạc bộ nghiệp dư, và xa lánh nhiều câu lạc bộ chuyên nghiệp để ở lại với Dulwich Hamlet, đội bóng địa phương của ông, nơi mà ông đã ghi hơn 400 bàn thắng, và vẫn là chủ đề trong các bài hát sân thượng của người hâm mộ câu lạc bộ. Nhân viên. "Tính đến tháng 8 năm 2020" Lịch sử quản lý. "Từ năm 1966 trở đi": Cổ động viên. Dulwich Hamlet có số khán giả tham dự cao nhất tại Isthmian League trong mùa giải 2015-16, với số người tham dự trung bình là 1.343, cao hơn gấp đôi so với tỷ lệ cao nhất tiếp theo tại Hampton & Richmond Borough. Câu lạc bộ đã nổi tiếng về yếu tố hoạt động ủng hộ họ, với những người hâm mộ đứng sau cầu môn có biệt danh "The Rabble". Trong những mùa giải gần đây, Ủy ban Câu lạc bộ Bóng đá, Ủy ban Hỗ trợ và người hâm mộ đã ủng hộ các sáng kiến chống phân biệt đối xử và chống kỳ thị người đồng tính, cùng với nhiều sáng kiến khác trong cộng đồng. Những nỗ lực của câu lạc bộ và tất cả các tình nguyện viên để đảm bảo câu lạc bộ kết nối với tất cả các thành phần của cộng đồng địa phương đã được ghi nhận vào năm 2016, khi đội được trao giải Câu lạc bộ cộng đồng của Quỹ bóng đá của năm tại Giải thưởng Trận đấu Quốc gia ở Luân Đôn. Tình hữu nghị với Altona 1893 và các liên kết châu Âu khác. Những người hâm mộ Hamlet đã phát triển một tình hữu nghị với những người ủng hộ câu lạc bộ Đức Altona 1893, vì hai câu lạc bộ được thành lập vào cùng năm, bắt đầu như một tình bạn bắt đầu bởi đội cổ động viên Dulwich Hamlet. Để công nhận mối quan hệ, câu lạc bộ đã sử dụng trang phục sân nhà của Altona 1893 làm trang phục sân khách cho mùa giải 2014-15. Ngày 12 tháng 7 năm 2015, Altona 1893 và một nhóm đông đảo người hâm mộ đã lên đường đến Nam Luân Đôn để thi đấu giao hữu giữa hai bên. Altona 1893 đã giành chiến thắng 5-3 trong ngày hôm đó. Vào tháng 7 năm 2015, Altona 1893 ra mắt mẫu áo đấu sân khách mới của đội với hai màu hồng và xanh, có biểu tượng tình hữu nghị trên tay áo. Dulwich Hamlet trở lại Hamburg vào tháng 7 năm 2018 để thi đấu với Altona 93 nhằm kỷ niệm 125 năm ngày thành lập của cả hai câu lạc bộ.
DHCP snooping
Trong mạng máy tính, DHCP snooping là một loạt các kỹ thuật được áp dụng để cải thiện tính bảo mật của cơ sở hạ tầng DHCP. Khi máy chủ DHCP đang cấp phát địa chỉ IP cho máy khách trong mạng LAN, DHCP snooping có thể được định cấu hình trên các thiết bị chuyển mạch LAN để ngăn lưu lượng DHCP độc hại, sai định dạng hoặc từ máy chủ DHCP giả mạo. Ngoài ra, thông tin về các máy chủ đã hoàn thành giao dịch DHCP được tích lũy trong cơ sở dữ liệu "bindings" mà sau đó có thể được sử dụng các tính năng bảo mật hoặc tính toán khác. Các tính năng khác có thể sử dụng thông tin cơ sở dữ liệu theo dõi DHCP để đảm bảo tính toàn vẹn của IP trên miền chuyển mạch Lớp 2. Thông tin này cho phép mạng:
Chúng Nghị viện
hay Hạ viện là một trong hai viện của Quốc hội Nhật Bản, viện còn lại là Tham Nghị viện tức Thượng viện. Chúng Nghị viện được thành lập năm 1890 sau khi Thiên hoàng Minh Trị ban hành Hiến pháp Đại Nhật Bản Đế quốc, theo đó Chúng Nghị viện là Hạ viện của Đế quốc nghị hội. Năm 1947, sau khi ban hành hiến pháp mới, Chúng Nghị viện trở thành một trong hai viện hợp thành Quốc hội Nhật Bản mới.
Cầu Hữu nghị Thái-Lào IV
Cầu Hữu nghị Thái-Lào IV (, ; , ) là một cây cầu bắc qua sông Mê Kông nối huyện Chiang Khong tỉnh Chiang Rai của Thái Lan và muang Huoixai tỉnh Bokèo của Lào. Kích thước. Cây cầu dài khoảng 480 mét và rộng khoảng 14,7 mét. Tuy nhiên khu vực thi công rộng 400m. Kinh phí. Thái Lan, Lào và Trung Quốc cùng hợp tác đầu tư 1,9 tỉ baht để xây dựng cầu.
Pristis clavata
Cá đao lùn hay Cá đao Queenland, Pristis clavata, là một loài cá đao của họ Pristidae, được tìm thấy ở vùng nhiệt đới Úc. Với chiều dài tối đa khoảng 3 mét (10 ft), đây là loài cực kỳ nguy cấp nhỏ nhất đến nay trong họ của mình.
Bodmin Town F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Bodmin Town là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở tại Bodmin, Cornwall, Anh. Đội hiện là thành viên của và thi đấu trên sân Priory Park. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập bởi W.M. Pethybridge và C.H. Bray vào năm 1889. Sau khi hợp nhất với một đội từ doanh trại địa phương vào năm 1900, đội bắt đầu thi đấu trong trang phục áo sơ mi trắng, lấy biệt danh là "the Lilywhites". Đội vô địch Bodmin & District (Senior) League vào mùa giải 1922-23, và vào năm 1925, màu áo sân nhà của câu lạc bộ được đổi thành màu hổ phách. Đội lại vô địch giải đấu vào mùa giải 1926-27 và á quân vào mùa giải 1947-48. Năm 1953, Bodmin gia nhập South Western League, chơi trong 9 mùa giải, trước khi rời vào cuối mùa giải 1961-62 để chơi ở East Cornwall Premier League. Đội tái gia nhập South Western League năm 1969, và là á quân mùa giải 1976-77. Đội đã vô địch giải đấu lần đầu tiên vào mùa giải 1990-91, và lại là nhà vô địch mùa giải 1993-94. Đội vô địch Cornwall Senior Cup lần đầu tiên mùa giải 1998-99, đánh bại Millbrook 2-1 trong trận chung kết. Sau khi kết thúc với vị trí á quân hai lần liên tiếp, đội đã giành chức vô địch giải đấu lần thứ ba vào mùa giải 2005-06. Năm 2007 câu lạc bộ là thành viên sáng lập của South West Peninsula League, và được xếp vào Premier Division; đội đã giành chức vô địch giải đấu và Cúp Liên đoàn trong cả hai mùa giải đầu tiên. Đội kết thúc với vị trí á quân vào các mùa giải 2009-10 và 2010-11, giành Senior Cup trong cả hai mùa giải, đánh bại Camelford 3-1 trong trận chung kết năm 2010 và St Austell 3-2 vào năm 2011. Mùa giải 2011-12 chứng kiến ​​đội giành chiến thắng giải đấu, League Cup và Senior Cup, đánh bại Saltash United 3-2 trong trận chung kết. Đội lặp lại kỳ tích mùa giải 2012-13, với việc Helston Athletic đánh bại 4-3 sau hiệp phụ trong trận chung kết Senior Cup. Chức vô địch giải đấu thứ năm đã giành được vào mùa giải 2015-16, với câu lạc bộ cũng giành được League Cup lần thứ năm và Senior Cup lần thứ sáu với chiến thắng 7-0 trước Godolphin Athletic trong trận chung kết. Sau khi tổ chức lại giải đấu vào cuối mùa giải 2018-19, Bodmin được xếp vào Premier Division West. Sân vận động. Ban đầu câu lạc bộ chơi tại Cooksland, một khu đất nằm trên đường Liskeard. Sau đó, đội chuyển đến Coldharbour Lane và sau đó là Barn Park, trước khi quay trở lại Cooksland. Sau đó, đội chuyển đến Westheath, chung sân với câu lạc bộ bóng đá và câu lạc bộ cricket St Lawrence's Hospital. Năm 1948, đội chuyển đến sân hiện tại, Priory Park, thuộc sở hữu của hội đồng địa phương. Một khán đài đã được di dời từ Westheath đến khu đất mới, nhưng được thay thế bằng một khán đài chính mới có sức chứa 400 vào năm 1958, với chi phí xây dựng là 2.500 bảng Anh; số tiền được quyên góp bởi TH Dennison, với khán đài được đặt tên là Khán đài Tưởng niệm Dennison. Dàn đèn được lắp đặt vào năm 1971 và một câu lạc bộ mới được xây dựng vào năm 1985. Một đầu của sân bao gồm bờ cỏ, với hai bên còn lại của sân để trống. Sân hiện có sức chứa 5.000 khán giả.
Simon Webbe
Simon Webbe Solomon (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1978) là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và quản lý âm nhạc người Anh. Anh được biết đến là một thành viên của ban nhạc Blue, được thành lập vào năm 2000 trước khi tan rã vào năm 2005 và tái hợp trong năm 2009. Ban nhạc đã bán được hơn 15 triệu bản. Webbe sau đó phát hành 2 album solo trong năm 2005 và 2006, bán được hơn 650.000 đĩa và có 5 đĩa đơn nằm trong UK Top 40 tại Anh.
Eviota winterbottomi
Eviota winterbottomi là một loài cá biển thuộc chi "Eviota" trong họ Cá bống trắng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2010. Từ nguyên. Loài cá này được đặt theo tên của nhà ngư học Richard Winterbottom. Phạm vi phân bố và môi trường sống. "E. winterbottomi" có phạm vi phân bố ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Chúng được tìm thấy ở vùng biển vịnh Nha Trang (Việt Nam), đảo Komodo (Indonesia) và Palau. Mẫu vật của "E. winterbottomi" được thu thập gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng 30 m trở lại. Mô tả. Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở "E. winterbottomi" là 1,6 cm. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia vây ở vây lưng: 8; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia vây ở vây hậu môn: 8.
Blackfield & Langley F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Blackfield & Langley là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở làng Blackfield, gần Southampton, Anh. Trực thuộc Hampshire Football Association, đội hiện là thành viên của và thi đấu trên sân Gang Warily Recreation Ground. Kình địch địa phương của đội là Fawley và Hythe & Dibden. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1935. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đội đã chơi ở Hythe & District League, và sau chiến tranh, câu lạc bộ gia nhậ Southampton Junior League. Sau khi vô địch Division One vào mùa giải 1945-46, đội chuyển tới giải West Division của Southampton League. Trong mùa giải đầu tiên của đội tại giải đấu, đội đã vô địch West Division và Southampton Senior Cup. Năm 1949 câu lạc bộ tham gia Three East của Hampshire League. Mặc dù vô địch mùa giải 1951-52, đội không được thăng hạng, và là Á quân của Division Three West mùa giải tiếp theo. Câu lạc bộ lại là á quân mùa giải 1954-55 và được xếp vào Division Three sau khi tái cấu trúc giải đấu vào cuối mùa giải. Blackfield & Langley là Á quân của Division Three mùa giải 1955-56 và lần này được thăng hạng lên Division Two. Tuy nhiên, sau khi kết thúc ở vị trí thứ hai từ dưới lên của giải đấu trong mùa giải 1959-60, câu lạc bộ đã bị xuống hạng trở lại Division Three. Sự tái cấu trúc giải đấu vào năm 1968 đã khiến đội chuyển sang Division Three West, trước khi được tổ chức lại vào năm 1971 dẫn đến việc câu lạc bộ trở thành thành viên của Division Four. Kết thúc ở vị trí thứ ba mùa giải 1974-75 dẫn đến việc thăng hạng lên Division Three, nhưng đội đã phải xuống hạng trở lại Division Four sau khi xếp cuối bảng mùa giải 1978-79. Khi Division Four bị bãi bỏ vào năm 1980, câu lạc bộ được chuyển lên Division Three. Mùa giải 1981-82 chứng kiến ​​Blackfield & Langley kết thúc với vị trí á quân ở Division Three, giành quyền thăng hạng lên Division One. Sau khi bỏ lỡ cơ hội thăng hạng lên Division One với hiệu số bàn thắng bại mùa giải 1983-84, đội tiếp tục giành chức vô địch Division Two mùa giải 1984-85 và được thăng hạng lên hạng đấu cao nhất của giải. Đội là Á quân Division One mùa giải 1988-89 và một lần nữa mùa giải 1991-92 và 1993-94. Đội tiếp tục vô địch Division One và Southampton Senior Cup mùa giải 1997-98, nhưng không thể thăng hạng do sân bãi của đội không đáp ứng được yêu cầu của Wessex League. Tuy nhiên, sau khi công việc nâng cấp hoàn tất, vị trí thứ ba tại Premier Division đã được đổi tên mùa giải 1999-2000 là đủ để đảm bảo suất thăng hạng. Khi Wessex League có thêm các hạng đấu vào năm 2004, câu lạc bộ đã phải xuống hạng ở Division Two mới, với vị trí thứ hai từ dưới lên của giải đấu vào năm 2003-04. Division Two sau đó được đổi tên thành Division One vào năm 2006. Blackfield & Langley là á quân của Division One năm 2008-09, được thăng hạng lên Premier Division. Trong mùa giải 2012-13, câu lạc bộ đã vô địch Premier Division, nhưng xin không thăng hạng lên Southern League do chi phí nâng cấp sân của họ. Đội đã vô địch Russell Cotes Cup của mùa giải 2014-15, đánh bại Horndean 2-0 trong trận chung kết. Câu lạc bộ vô địch Premier Division in 2017-18, giành quyền thăng hạng Division One South của Southern League. Mùa giải 2018-19 chứng kiến ​​câu lạc bộ giành chức vô địch Division One South, thăng hạng Premier Division South. Sân vận động. Câu lạc bộ đã chuyển đến Gang Wainst Recreation Ground sau khi nó được xác định là một địa điểm thích hợp cho một sân có thể được nâng cấp lên tiêu chuẩn Wessex League. Nằm cạnh Nhà máy lọc dầu Fawley, sân hiện có sức chứa 2.500 người, trong đó 180 chỗ ngồi.
Boldmere St. Michaels F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Boldmere St. Michaels là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở tại Boldmere, Sutton Coldfield, Anh. Đội hiện là thành viên của và thi đấu trên sân Trevor Brown Memorial Ground. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1883 với tư cách là một đội bóng thiếu niên trực thuộc nhà thờ địa phương. Sau khi chơi các trận giao hữu với các đội nhà thờ khác trong 29 năm tiếp theo, đội tham gia một giải đấu lần đầu tiên vào năm 1912. Câu lạc bộ sau đó đã phát triển qua một số giải đấu trước khi gia nhập Birmingham AFA League. Đội đã giành được Senior Cup vào mùa giải 1928-29 và Junior Cup mùa giải 1933-34. Năm 1937, câu lạc bộ tham gia Central Amateur League, và là á quân của giải đấu mùa giải 1938-39, trước khi vô địch giải đấu mùa giải 1946-47. Mùa giải 1947-48 Boldmere lọt vào bán kết của FA Amateur Cup, cuối cùng thua Barnet trước 26.000 khán giả tại Highbury. Đội cũng là Á quân của Central Amateur League và lọt vào trận chung kết của AFA Senior Cup, hòa chung cuộc với Cambridge Town 2-2, và các câu lạc bộ cùng được trao cúp. Sau đó, đội tiếp đón đội tuyển Thế vận hội Ấn Độ trong một trận giao hữu sau Thế vận hội Mùa hè 1948, để thua với một bàn thua duy nhất. Mùa giải tiếp theo chứng kiến ​​Boldmere vô địch Central Amateur League, sau đó đội tham gia Birmingham & District League. Quyết định duy trì nghiệp dư ở một giải đấu phần lớn là bán chuyên nghiệp, thành tích của câu lạc bộ bắt đầu đi xuống và đội đứng thứ hai từ dưới lên của giải đấu các mùa giải 1952-53 và 1953-54. Khi Birmingham & District League hợp nhất với Birmingham Combination được xếp vào South Division trong một mùa giải chuyển tiếp, trong đó đội xếp cuối bảng. Kết quả là, câu lạc bộ trở thành thành viên của Division Two vào mùa giải tiếp theo. Giải đấu sau đó được rút xuống còn một hạng đấu duy nhất vào năm 1960 và đổi tên thành West Midlands (Regional) League năm 1962. Năm 1963, câu lạc bộ rơi xuống Division One của Worcestershire Combination. Giải đấu được đổi tên thành Midland Combination vào năm 1968 và câu lạc bộ là Vô địch Challenge Cup mùa giải 1977-78 trước khi giành chức vô địch Tony Allden Cup mùa giải 1978-79. Division One trở thành Premier Division vào năm 1983 và câu lạc bộ là nhà vô địch giải đấu mùa giải 1985-86, và sau khi kết thúc với tư cách á quân mùa giải 1987-88, đội đã giành được chức vô địch thứ hai mùa giải 1988-89. Mùa giải 1989-90 chứng kiến ​​đội giành được cú ăn ba vô địch, League Cup và Tony Allden Cup. Đội tiếp tục giành được cả hai cúp vào mùa giải tiếp theo và lại giành được cúp Tony Allden mùa giải 1991-92. Năm 1994, Boldmere là thành viên sáng lập của Midland Alliance, và là á quân giải đấu mùa giải 2013-14, mùa giải cuối cùng của giải đấu. Khi hợp nhất với Midland Combination để tạo thành Midland League, câu lạc bộ trở thành thành viên của Premier Division. Sân vận động. Ban đầu có tên là Church Road, sân được đổi tên vào năm 2004 theo tên cựu chủ tịch Trevor Brown. Hiện sân có sức chứa 2.500 chỗ, trong đó 230 chỗ ngồi và 400 chỗ ngồi có mái che.
Black Country Rangers F.C.
Câu lạc bộ bóng đá OJM Black Country Rangers là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Brierley Hill ở West Midlands. Đội hiện là thành viên của và thi đấu trên sân Hillcrest Avenue. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1996. Năm 2007, đội tham gia Division Two của West Midlands (Regional) League. Câu lạc bộ vô địch Division Two mùa giải 2009-10, giành quyền thăng hạng lên Division One. Đội đã vô địch Division One the mùa giải tiếp theo và được thăng hạng lên Premier Division. Mùa giải đầu tiên của Black Country Rangers ở Premier Division hứng kiến đội kết thúc với tư cách á quân. Câu lạc bộ cũng đã giành được JW Hunt Cup, đánh bại AFC Wulfrunians 4-3 trong trận chung kết. Đội đã giành được cúp vào mùa giải sau đó với chiến thắng 4-3 trước Wolverhampton Casuals. Vào năm 2018, câu lạc bộ đã được tái cấu trúc và đổi tên thành Câu lạc bộ bóng đá Black Country, mặc dù đội một tiếp tục thi đấu dưới tên Black Country Rangers.
Bài toán chuỗi con chung dài nhất
Vấn đề chuỗi con chung dài nhất (tiếng anh: Longest common subsequence - LCS) là vấn đề trong việc tìm kiếm một chuỗi con chung dài nhất cho tất cả các chuỗi trong một bộ chuỗi (thường chỉ hai chuỗi). Nó khác với vấn đề về xâu con chung dài nhất ở chỗ: không giống như các xâu con, các chuỗi con không bắt buộc phải chiếm các vị trí liên tiếp trong các chuỗi ban đầu. Bài toán chuỗi con chung dài nhất là một trong những bài toán khoa học máy tính cổ điển, là cơ sở của các chương trình so sánh dữ liệu như diff, và có các ứng dụng trong ngôn ngữ học tính toán và tin sinh học. Nó cũng được sử dụng rộng rãi bởi các hệ thống quản lý phiên bản như Git để điều chỉnh nhiều thay đổi được thực hiện cho một bộ sưu tập tệp được kiểm soát sửa đổi. Ví dụ, hãy xem xét các chuỗi (ABCD) và (ACBAD). Chúng có 5 chuỗi con chung có độ dài bằng 2: (AB), (AC), (AD), (BD) và (CD); 2 chuỗi con chung có độ dài bằng 3: (ABD) và (ACD); và không còn chuỗi con chung nào khác có độ dài lớn hơn nữa. Vì vậy (ABD) và (ACD) là hai dãy con chung dài nhất của hai chuỗi ban đầu. Độ phức tạp. Đối với trường hợp tổng quát với số lượng chuỗi trình tự đầu vào là tùy ý, vấn đề là NP-khó. Khi số lượng chuỗi trình tự không đổi, bài toán có thể giải được trong thời gian đa thức bằng quy hoạch động. Thuật toán cho hai chuỗi. Bài toán LCS có một cấu trúc con tối ưu: Có nghĩa là bài toán có thể được chia thành các bài toán con nhỏ hơn và đơn giản hơn, và các chính bài toán con cũng được chia thành các bài toán con đơn giản hơn, và cứ thế, cho đến khi, cuối cùng, nghiệm của bài toán trở nên đơn giản và dễ nhận thấy. LCS nói riêng có các bài toán con chồng chéo: các nghiệm cho các bài toán con cấp cao sẽ sử dụng lại các nghiệm cho các bài toán con cấp thấp hơn. Các vấn đề với hai thuộc tính này có thể giải quyết được bằng quy hoạch động, trong đó các nghiệm của bài toán con sẽ được lưu lại để xử lý lúc sau. Tiền tố. Ta định nghĩa tiền tố "S""n" của "S" là chuỗi chứa "n" ký tự "đầu tiên của S." Ví dụ: các tiền tố của "S" = (AGCA) là Gọi "LCS"("X", "Y") là một hàm tính toán chuỗi con chung dài nhất cho "X" và "Y." Một hàm như vậy có hai tính chất đặc biệt như sau: Tính chất đầu tiên. "LCS"("X"^"A", "Y"^"A") = "LCS" ("X", "Y")^"A", cho tất cả các chuỗi "X", "Y" và tất cả các ký hiệu "A", trong đó dấu ^ biểu thị phép nối xâu. Điều này cho phép chúng ta đơn giản hóa việc "tính toán LCS" cho hai chuỗi kết thúc cùng một ký hiệu. Ví dụ: "LCS" ("BANANA", "ATANA") = "LCS" ("BANAN", "ATAN") ^ "A", Tiếp tục cho các ký hiệu chung còn lại, "LCS" ("BANANA", "ATANA") = "LCS" (" BAN "," AT ") ^" ANA". Tính chất thứ hai. Nếu "A" và "B" là hai ký hiệu riêng biệt ("A"≠"B"), thì "LCS" (X^A, Y^B) là một trong hai xâu có độ dài cực đại trong tập {"LCS"("X"^"A", "Y"), "LCS"("X", "Y"^"B")}, cho tất cả các xâu "X và" "Y." Ví dụ: "LCS" ("ABCDEFG", "BCDGK") là xâu dài hơn của "LCS" ("ABCDEFG", "BCDG") và "LCS" ("ABCDEF", "BCDGK"); nếu cả hai có độ dài bằng nhau, ta có thể chọn tùy ý một trong những chuỗi thỏa mãn. Định nghĩa hàm LCS. Cho hai chuỗi được xác định như sau: formula_1 và formula_2. Các tiền tố của formula_3 là formula_4; tiền tố của formula_5 là formula_6. Gọi formula_7 là đại diện cho tập hợp các chuỗi con chung dài nhất cho các tiền tố của formula_8 và formula_9. Tập hợp các chuỗi này được định nghĩa như sau. Làm việc với ví dụ. Để lấy ví dụ, ta sẽ tìm chuỗi con dài nhất chung cho hai xâu "R" = (GAC) và "C" = (AGCAT). Vì "hàm LCS" xét từ vị trí 0, nên để thuận tiện, ta sẽ xác định các tiền tố 0 là trống cho các chuỗi này: "R"0 = Ø; và "C"0 = Ø. Tất cả các tiền tố được đặt trong một bảng với "C" ở hàng đầu tiên và R ở cột đầu tiên: Bảng này được sử dụng để lưu trữ trình tự tính LCS cho mỗi bước tính toán. Cột thứ hai và hàng thứ hai đã được điền bằng Ø, bởi vì khi một chuỗi trống được so sánh với một chuỗi không trống, chuỗi con chung dài nhất luôn là chuỗi trống. "LCS" ("R"1, "C"1) được xác định bằng cách so sánh các phần tử đầu tiên trong mỗi chuỗi. G và A không giống nhau, vì vậy LCS này nhận (sử dụng tính chất thứ hai trên) chuỗi dài nhất trong hai chuỗi, "LCS"("R"1, "C"0) và "LCS" ("R"0, "C"1). Theo bảng, cả hai đều trống, vì vậy "LCS" ("R"1, "C"1) cũng trống. Các mũi tên biểu thị chuỗi nhập vào: chuỗi đến từ ô ở trên, "LCS" ("R"0, "C"1) và chuỗi đến từ ô ở bên trái, "LCS"("R"1, "C"0). "LCS" ("R"1, "C"2) được xác định bằng cách so sánh G và G. Chúng khớp với nhau, nên G được nối vào chuỗi phía trên bên trái, "LCS"("R"0, "C"1), là (Ø), cho (ØG), ta được (G). Đối với "LCS" ("R"1, "C"3), G và C không khớp. Chuỗi trên trống; Chuỗi bên trái chứa một phần tử, (G). Chọn phần tử có độ dài dài nhất trong hai chuỗi này, ta được "LCS" ("R"1, "C"3) là (G). Mũi tên chỉ sang trái, vì đó là chuỗi dài nhất trong hai chuỗi. "Tương tự như vậy, LCS"("R"1, "C"4) và "LCS"("R"1, "C"5) là (G). Tương tự như vậy, ta hoàn thành hàng "R""2" Bảng hoàn thiện cuối cùng là Mã cho giải pháp quy hoạch động. Tính độ dài của LCS. Hàm bên dưới nhận như chuỗi đầu vào codice_1 và codice_2, tính LCS giữa codice_3 và codice_4 cho tất cả codice_5 và codice_6, và lưu trữ nó trong codice_7. codice_8 sẽ chứa độ dài LCS của codice_9 và codice_10 function LCSLength(X[1..m], Y[1..n]) C = array(0..m, 0..n) for i:= 0..m C[i, 0] = 0 for j:= 0..n C[0, j] = 0 for i:= 1..m for j:= 1..n if X[i] = Y[j] C[i, j]:= C[i-1, j-1] + 1 else C[i, j]:= max(C[i, j-1], C[i-1, j]) return C[m, n]
Trương Vũ Tước
Trương Vũ Tước (chữ Hán: 张禹爵, ? – 1868), người thôn Trương Lão Gia, Bạc Châu, tỉnh An Huy , tên gốc là Trương Ngũ Hài, tướng lãnh giai đoạn hậu kỳ của phong trào khởi nghĩa Niệp quân (sau cái chết của thủ lĩnh Ốc vương Trương Nhạc Hành), phong hiệu là Ấu Ốc vương. Cuộc đời hoạt động. Ông là cháu họ gần đàng nội của Trương Nhạc Hành, có thuyết cho rằng Vũ Tước là con trai của Mẫn Hành, anh trai Nhạc Hành. Sau khi Nhạc Hành bị làm tội (1863), ông rời quê nhà gia nhập Niệp quân. Vũ Tước được thủ lĩnh Trương Tông Vũ (cháu họ xa của Nhạc Hành) dìu dắt, xem như người kế tự của Nhạc Hành, được tiếp nhận vương hiệu, gọi là Ấu Ốc vương; là người nhỏ tuổi nhất trong các vương của nghĩa quân (kể cả quân Niệp và quân Thái Bình) bấy giờ. Mùa thu năm 1866, quân Tân Niệp ở Hứa Châu, Hà Nam chia 2 lộ Đông - Tây, Vũ Tước theo Trương Tông Vũ đưa quân Tây Niệp đi Thiểm Tây, là tướng lãnh thân cận của ông ta. Trong hàng ngũ nghĩa quân, Tông Vũ nổi tiếng là "giỏi mưu" (thiện mưu), ông nổi tiếng là "giỏi đánh" (thiện chiến). Năm sau (1867), quân Tây Niệp từ Nghi Xuyên hồ khẩu vượt Hoàng Hà, đạp lên băng mà sang sông, Vũ Tước làm tiền phong, đốt lũy của quan quân ở bờ bên kia, tiến vào Sơn Tây. Tháng 3 năm 1868, Vũ Tước tử trận ở Nhiêu Âm thuộc trung bộ Hà Bắc . Có thuyết khác cho rằng ông tử trận vào tháng 6 năm ấy, do bị trúng đạn lạc khi chiến đấu trong khoảng giữa sông Mã Giáp và sông Đồ Hãi.
Karol Adwentowicz
Karol Adwentowicz (sinh ngày 19 tháng 10 năm 1871 - mất ngày 19 tháng 7 năm 1958) là một diễn viên và đạo diễn sân khấu người Ba Lan. Sự nghiệp. Karol Adwentowicz đã đạo diễn nhiều vở kịch và biểu diễn trên sân khấu của một số nhà hát, trong đó có Nhà hát Słowacki ở Kraków vào năm 1912. Trong hai năm 1933-1934, ông cùng Stefan Jaracz điều hành Nhà hát Ateneum ở Warsaw. Ngoài ra, Karol Adwentowicz còn là người sáng lập Nhà hát Kameralny tại thủ đô.
Sân bay Samjiyŏn
Sân bay Samjiyŏn là một sân bay quân sự nằm gần huyện Samjiyon, tỉnh Ryanggang, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Sân bay tọa lạc gần núi Trường Bạch (Paektu). Các du khách có thể bay đến sân bay này trong lịch trình đến thăm ngọn núi và nơi sinh của Kim Chính Nhật. Mọi chuyến tham quan đến khu vực này đều bao gồm một chuyến hành trình đến đây. Đường bay duy nhất đến sân bay này là từ sân bay quốc tế Sunan do hãng hàng không duy nhất của Triều Tiên Air Koryo thực hiện.
Eleanor Catton
Eleanor Catton sinh ngày 24 tháng 9 năm 1985 là nhà văn nữ người New Zealand, đã đoạt Giải Man Booker năm 2013 với tiểu thuyết thứ nhì của chị, quyển "The Luminaries". Tiểu sử. Catton sinh tại London, Ontario, Canada nơi người cha gốc New Zealand của chị đang hoàn thành luận án để lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Tây Ontario. Gia đình chị chuyển về Leeds (Anh) và chị học ở Trường Lawnswood một năm. Chị đã mô tả thời gian sống ở đây là "tuyệt vời, nhưng thực sự là nơi mở mắt" do tình trạng khó khăn của môi trường. Sau đó gia đình trở lại Christchurch New Zealand khi chị lên 6 tuổi. Chị học ở trường trung học Burnside, học môn ngôn ngữ Anh ở Đại học Canterbury, rồi hoàn tất bằng thạc sĩ về "Creative Writing" ("viết sáng tạo") tại "Học viện Văn chương hiện đại" của Đại học Victoria tại Wellington. Năm 2008, Catton được cấp một học bổng tham dự Iowa Writers' Workshop ở Đại học Iowa. Năm 2009 chị được mô tả là "cô gái vàng của văn học hư cấu trong năm". Năm 2011, chị trở thành nhà văn viết tại nơi cư trú ở Đại học Canterbury. Catton hiện sống ở Auckland và là giáo viên môn viết sáng tạo tại Học viện công nghệ Manukau. Tác phẩm. Quyển tiểu thuyết đầu tay năm 2008 của Catton là quyển "The Rehearsal", được viết như bản luận án thạc sĩ của chị đề cập tới những phản ứng đối với cuộc tình giữa một nam giáo viên với một nữ sinh ở trường trung học của mình. Tiểu thuyết thứ nhì của Catton, quyển "The Luminaries", được xuất bản năm 2013 đặt bối cảnh ở những vùng có mỏ vàng của New Zealand năm 1866. Quyển này được vào chung kết và sau đó đoạt Giải Man Booker năm 2013, làm cho Catton trở thành tác giả trẻ tuổi nhất đoạt giải này ở tuổi 28. Trước đó, vào năm 27 tuổi, chị đã là tác giả trẻ nhất được vào chung kết giải Man Booker. Quyển "The Luminaries" dày 832 trang, là tác phẩm dài nhất đoạt giải Man Booker trong suốt 45 năm lịch sử của giải. Trưởng ban giám khảo, Robert Macfarlane đã bình luận: "Đây là một tác phẩm sáng chói, một tác phẩm dễ hiểu và đồ sộ nhưng không rườm rà". Catton được nữ công tước Camilla của vùng Cornwall trao giải Man Booker ngày 15.10.2013 tại Guildhall.
Cá bốn mắt vảy lớn
Cá bốn mắt vảy lớn, tên khoa học Anableps anableps, là một loài cá bốn mắt được tìm thấy trong vùng nước lợ miền bắc Nam Mỹ và Trinidad. Loài này phát triển đến chiều dài 32 cm (13 in). Cá này có thể được tìm thấy trong các hồ cá thương mại.
Lâu đài Spiš
Lâu đài Spiš (, ; ; ; ) là một tàn tích lâu đài nằm ở Spišská Nová Ves, Spiš, phía đông Slovakia. Đây là một trong những quần thể lâu đài lớn nhất ở Trung Âu với diện tích 41.426 mét vuông. Nó nằm phía bên trên thị trấn Spišské Podhradie và làng Žehra,trong vùng được gọi là Spiš (, , , ). Lâu đài được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1993 cùng với các địa điểm lân cận là Spišská Kapitula và Žehra. Nó được quản lý bởi Bảo tàng Spiš tại Levoča, một đơn vị thuộc Bảo tàng Quốc gia Slovakia. Lịch sử. Nguồn gốc. Lâu đài Spiš được xây dựng vào thế kỷ 12 trên địa điểm của một lâu đài cổ trước đó. l Đây là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế và văn hóa của hạt Szepes thuộc Vương quốc Hungary. Trước năm 1464, nó thuộc sở hữu của các vị vua Hungary. Sau đó, nó lần lượt là tài sản các gia tộc Zápolya cho đến năm 1528, Thurzó từ năm 1531–1635, Csáky từ 1638–1945. Từ năm 1945, nó trở thành tài sản của nhà nước Tiệp Khắc và Slovakia sau này. Ban đầu nó là một lâu đài đá mang kiến trúc Romanesque bao gồm các công sự, một cung điện hai tầng Romanesque và một vương cung thánh đường Romanesque-Gothic ba gian được xây dựng vào nửa sau của thế kỷ 13. Đến thế kỉ 14, cùng với việc xây dựng khu vực định cư ngoại thành thứ hai, diện tích của lâu đài cũng được tăng lên gấp đôi. Nó được xây dựng lại hoàn toàn vào thế kỷ 15 với việc các bức tường được nâng cao, và một khu định cư ngoại thành thứ ba. Cho đến năm 1470, dưới sự cai trị của gia tộc Zápolya, những bước chuyển đổi sang kiến trúc Gothic dần bắt đầu cùng với việc xây dựng một nhà nguyện mang kiến trúc Gothic muộn, khiến lâu đài trên cao trở thành dinh thự gia tộc đầy đủ, điển hình cho những dinh thự cuối thời Phục Hưng của thế kỷ 16, 17. Suy tàn và tái thiết. Những người chủ cuối cùng của Lâu đài Spiš là gia tộc Csáky đã từ bỏ lâu đài vào đầu thế kỷ 18 vì cho rằng nó rất bất tiện cho cuộc sống. Họ chuyển đến công trình xây dựng mới không xa làng lâu đài/cung điện ở Hodkovce, gần Žehra và Spišský Hrhov. Năm 1780, lâu đài bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn. Nguyên nhân của vụ cháy vẫn chưa được biết đến, nhưng có một số giả thuyết. Một là, gia tộc Csáky cố tình đốt nó để giảm tiền thuế vì vào thời điểm đó, các loại thuế bổ sung được áp dụng cho các tòa nhà có mái. Giả thuyết thứ hai là nó bị sét đánh, khiến đám cháy lan ra. Thứ ba là một số binh lính trong lâu đài đang nấu rượu lậu và trong quá trình đó đã vô tình gây ra hỏa hoạn. Dù thế nào đi nữa, sau trận hỏa hoạn, lâu đài không còn người ở và bắt đầu hoang tàn. Lâu đài đã được tái thiết một phần vào nửa sau thế kỷ 20 và các nghiên cứu khảo cổ học đã được thực hiện tại khu vực này. Các phần được xây dựng lại là nơi trưng bày của Bảo tàng Spiš, nơi chịu trách nhiệm quản lý lâu đài và trưng bày các hiện vật như là thiết bị tra tấn từng sử dụng trong lâu đài.

No dataset card yet

New: Create and edit this dataset card directly on the website!

Contribute a Dataset Card
Downloads last month
0
Add dataset card